CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 8.

Một hồi rất lâu sau, hai ông đành tạm biệt NAM THÀNH THÁNH THẤT lần ra ngoài đường. Bóng chiều đã dần buông trên những cánh rừng. Từng đàn trâu đeo mõ lốc cốc đi về chuồng. Ngoài đằng kia, nhà nào đốt rơm đuổi muỗi cho trâu, hương vị của khói rơm nao nao trong lòng người xa xứ. Tìm mãi mới được một quán cóc còn bán hàng, hai ông lần vào trong, gọi hai xị rượu đế với một miếng khô cá đuối nướng . Nhâm nhi ngồi, nghĩ tới công việc ngày mai.
Nhớ
lại những
bài thơ buổi
trưa, ông Thầy
Bảy chợt
cất giọng
ngâm theo điệu Nam ai:
" Mê đắm tình đời luống khổ Tâm,
Muôn Thu chịu mãi bước sai lầm.
Xa đường Thiên Đạo không trông thoát,
Nhơn
dục cháy bừng đốt tri Tâm ... "
Rồi quay sang ông Thầy Chàm cùng cạch ly và hỏi nhỏ:
- Bây giờ ông tính sao?
Từ
nãy đến giờ,
ông Thầy Chàm ngồi bó gối im ru, mắt ông ươn ướt, đầy vẻ
thê lương. Mãi một hồi
lâu sau ông mới cất tiếng:
- Anh Bảy ơi!
Sao tôi khổ tâm quá. Việc của
mẹ con cô Lan, ông đã biết rồi,
không trả thù thì tôi đâu còn mặt mũi nào nhìn họ nữa.
Nhưng nghĩ đi cũng phải suy lại, từ
vị sư
già trên Núi Két cho tới vị
chưởng quản NAM THÀNH THÁNH THẤT đều
có ý khuyên chúng ta nên bỏ
ý định trả
thù. Tôi hoang mang quá anh Bảy
ơi.
Ông Bảy cũng trầm ngâm, rồi ôm vai người bạn già đau khổ mà nói: Thôi thế này, ngày mai chúng ta thử đến
chi nhánh của các Giáo phái
Tân Chiếu Minh, Tổ Tiên Chính Giáo, Vô Vi pháp,
Ayasanta gần đây xem sao.
Tôi nghĩ với tình thâm giao
mấy chục năm trời , lẽ
nào họ lại
không giúp chúng ta, nếu
trường hợp tất
cả cùng chối từ,
thì âu cũng là mệnh
Trời. Bây giờ phải
kêu thêm hai gói mỳ tôm dằn
bụng để
mai có sức đi tiếp. Đêm hôm đó, hai vị Thầy
giăng hai cánh võng nhờ
cột của
quán nằm đốt
thuốc mông lung. Suốt đêm đó, không ai ngủ được,
mọi việc
được quay lại như
một cuốn
phim chầm chậm.
Thấm thoát đã hơn một
năm từ ngày cái đầu lâu mất tích. Từ đó bao nhiêu biến cố
đã xảy ra, đẩy hai ông bạn già, hai vị Thầy
cao tay khét tiếng
xứ Tây Ninh này phải vạ
vật nơi
đây. Lâu lâu, trong đêm thanh vắng, tiếng chó tru từng hồi
dài như muốn
báo hiệu một
kết cục
không lấy gì tốt đẹp.
Mãi gần sáng, hai ông mới chớp
mắt được
đôi chút. Trong giấc
ngủ mộng
mị, hai ông như con thấy mẹ
cô Lan và lũ Thiên Linh tử
tù quần đảo
khắp xung quanh, canh gác cho hai ông
ngủ. Một
ngày mới lại
bắt đầu
...

Ngày hôm sau, hai Thầy lại tiếp tục lên đường trở về chợ Long Hòa. Lúc đi qua ngôi tháp Bát quái cạnh chợ, họ dừng lại thắp vài nén nhang, tưởng nhớ đứa con đã mất và trận chiến bi hùng năm trước. Tây Ninh trời vẫn xanh ngăn ngắt một màu, những hàng cây chò chỉ vẫn oai phong vương lên Trời cao như những người lính xếp hàng. Chợ Long Hòa vẫn tập nâp kẻ mua, người bán, dòng đời hối hả như đã quên lãng hai vị thày. Qua chợ Long Hoa, họ đi về phía núi Bà Đen. Từ xa, ngọn núi Bà cao vút, in bóng hình trên nền Trời xanh và mặt nước của hồ Dầu Tiếng cũng ngăn ngắt xanh. Gọi một con đò ngang, họ tiến về một cù lao nổi lên ở giữa hồ. Nơi đây có một Thất của phái Tân Chiếu Minh do một người bạn cũ của họ làm chưởng quản. Phái Tân Chiếu Minh làm ngài Ngô Minh Chiêu sáng lập, vị tiền bối khai Đạo và cũng là vị Giáo Tông anh cả đầu tiên trong nền Tôn Giáo Cao Đài, tức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài sinh ngày mùng 7 tháng Giêng năm Mậu dần, nhằm ngày 28-02-1878 tại Quận Bình Tây, tỉnh Chợ Lớn. Liễu Đạo ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Thân, nhằm 18-04-1932 tại Cần Thơ hưởng dương được 54 tuổi được bổn Đạo Chiếu-Minh xây tháp tại nghĩa-địa Chiếu-Minh trước Thánh Đức Tổ Đình cách Châu Thành Cần - Thơ lối 3 cây số.
Ngài có lập
gia đình với bà Bùi Thị Thân và sanh được 9 người con, mất hết
2 còn 7 người, 2 và 5 trai
gái. Cha mẹ là công nhân
nghèo làm việc tại nhà máy Bình Tây Chợ-lớn,
vì phải theo chủ đi ra Hà Nội Bắc
Việt, nên gởi lại
con cho người em gái nuôi.
Ngài xa tình thương
rất sớm
phụ mẫu
từ lúc mới lên 7 tuổi và được người cô dưỡng nuôi cho đi học tại
trường Mỹ Tho. Sau được học bổng
lên học tại
trường Trung Học Chasseloup-Laubat ở Sàigòn và đỗ được
bằng thành chung năm 21 tuổi . Được
bổ làm việc , trước tại sở
Tân Đào (sở di trú) ngày
31/12/1902, sau tại
Dinh Thượng Thơ ở
Sàigòn. Dời về làm việc tại
Tòa Bố tỉnh
Tân An ngày 05 Tháng 1 năm 1909 và thi đỗ
tri huyện năm 1917. Sau vì buồn mẹ
mất và không muốn liên quan đến làm việc không liêm chính của một
số đồng
liêu, Ngài xin đổi
ra Hà Tiên một tỉnh xa xôi gần biên giới Cao Miên và bờ biển
Vịnh Thái Lan.
Chính nhờ cảnh
trí xinh đẹp Trời nước
mênh mông và núi non thanh lịch
khêu gợi, nên Ngài hay đến Thạch
Động để
cầu Tiên và được các Đăng thiêng liêng
dẫn dắt
đưa về
nẻo Đạo
huyền vi. Đến khi ra mhậm quận
trấn Dương
Đông ngoài đảo
Phú Quốc, trong Vịnh Xiêm La, Ngài mới ngộ
được Đạo Trời
và được đức Cao Đài Tiên Ông trực tiếp
truyền trao bí pháp tu luyện cho đến khi đắc Đạo.
Chính tại quận
đường, ban ngày Ngài đã tận mắt
thấy "Thiên Nhãn" hiện ra hai lần với
hào quang rực rỡ chói lòa khiển để
Ngài dùng làm biểu
tượng mà thờ đức
Chí Tôn Thượng Đế mở
Đạo kỳ ba để độ
tân Nhơn loại
, là Giáo Chủ Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ, tức
Đạo Cao Đài, Ngài là vị môn đồ đầu
tiên được đức Cao Đài Thượng Đế phong chức Giáo Tông, là người anh cả để
dẫn dắt
các em trở về với
Đại Từ
Phụ.
Đêm qua đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mùng 9 tháng Giêng năm Bình Dân
(21-2-26). Ngài Ngô Minh Chiêu mới
xin đức Cao Đài Thượng Đế lấy
tên mấy người
đệ tử
đầu tiên đề cho một bài thi kỷ niệm.
Thượng Đế có cho 4 câu như vầy:
CHIÊU, KỲ, TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUI GIẢNG thanh,
Hậu Đức Tắc Cư Thiên Địa cảnh,
Hươn Minh Mân đáo thủ đái danh.
(12 chữ lớn ghi trong bài thi là tên 12 vị đệ tử đầu tiên, còn ba tên chót Hươn Minh Mân là 3 vị hầu đàn)
Vâng lệnh
Đức Chí Tôn, ngày 13 tháng 8 năm Bình
Dân (29/6/26), ông Lê Văn Trung hiệp
cùng 247 môn đệ đức Cao Đài đứng tên lập tờ
khai Đạo gởi
đến Chánh Phủ Pháp qua ông Thống Đốc
Nam Kỳ Ông là Lê fol (trao toàn quyền
Pasquier vào ngày 7/10/26).
Đến đây Ngài Ngô Minh Chiêu nhận thấy
đã xong nhiệm vụ xây dựng nền
tảng cho cơ Phổ
Độ, nhường
lại cho quí ông Trung, tiếp tục
và xin trở về ẩn
tu để tịnh
luyện cho được thành công viên mãn
và mở cơ
Tuyển Độ
Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi. Để dẫn
độ một
số người
đại nguyên căn, quyết cầu
tu giải thoát hầu tu chứng tại
tiền cho Nhơn sanh tin tưởng nơi Tân Pháp Cao Đài do đức
Thượng Đế truyền
trao cho Ngài hồi
ở Dương
Đông Phú Quốc năm Tân Dậu (1920) .
Phương châm tu hành của phái Chiếu Minh Tâm thanh vô vi:
Đệ tử
Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi thuộc Cao Đài Đại Đạo
cần phải
tuân hành những lời dạy
của đức
Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu, như dưới
đây:
Thập thanh điều:
1 / Không nên thâu dụng
của Tánh bộ,
2 / Không nên dự
vào việc
Quốc
chánh,
3 / Không nên thốt
đến Đạo nào,
4 / Không nên niệm
chú thư
phù
và
chắc
thói tà mị.
5 / Không nên bưởi
móc việc
quan và che lấp
việc
phải
của người.
6 / Không nên Bường
Tánh phổi
tự, phải xét những việc tội lỗi mà chừa.
7 / Không nên gần
kẻ bạo ngược, hung hăng. Phải ẩn dật lo tu.
8 / Không nên tham luyến
hồng trần, vinh hoa phú quí.
9 / Không nên coi người
giàu sang hơn
người
nghèo hèn.
10 / Phải
giữ
đạo đức, hiếu nghĩa, trung tín,
liêm sĩ, tiết
trinh, từ
bi Chơn
chánh.
Thập
thanh điều:
Một
khuyên giảm
khẩu
còn lo,
Hai khuyên chánh kỷ
cho tròn hóa Nhơn.
Bà khuyên giảm
Tánh giận
hờn,
Bốn
khuyên giữ
lễ chớ lờn oai Tiên.
Năm khuyên kính mến
người
hiền,
Sáu khuyên đậy
mắt lánh miền thị phi.
Bảy
khuyên học
chữ
Từ Bi,
Tám khuyên hành đạo
kịp kỳ Long Hoa.
Chín khuyên suy xét gần
xa,
Mười
khuyên lập
nét ôn hòa độ
dân.
Mỗi người
đạo hữu
nào muốn vào cầu Đạo
tu theo Phái Đại Thừa Chiếu
Minh Tam Thanh Vô Vi, đức
Ngô có căn dặn cặn kẻ,
trước tiên phải suy nghĩ chính chắn liệu
chở nổi
cái Đạo hay không rồi sẽ
bước tới, vì tu theo Đạo của
Ngài phải chịu
khổ sở
lắm và phải vui vẻ chấp
nhận mọi
thử thách khảo đảo.
"Vậy Thầy
dạy cho các con biết Đạo
Thầy rất
khó, muốn tu đặng thành vị phải
vào tử ra sanh, chịu trăm ngàn cay đắng, khổ hạnh
muôn vàn xét công. Thử
người mà muốn tạo
một địa
vị khả
quan nơi cõi tạm
này, còn phải hao tốn biết
bao sức lực
khó khăn, lựa là tạo một
ngôi bầu ở
chốn thông thả muôn năm, ngàn kiếp thanh nhàn . Vậy con bình tâm suy xét cho kỹ càng, liệu lấy
sức mình trước khi , rồi Thầy
sẽ định
đoạt.
"Đạo Thầy
thiệt rất
khó ngộ, nhưng
cũng dễ tìm, vì Thầy tùy duyên hóa độ, kẻ
có căn dễ gặp,
người vô phước khó tri ..".
Muốn thọ
Pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, người cầu Đạo
phải đã thọ trường
trai ít lắm 100 ngày trước đó và được hai bạn đạo
tiến dẫn
vào một đàn nào đó. Sau khi được người chủ đàn cho biết rõ điều kiện
như đã kể
ở đoạn
trên và đọc Thánh Huấn vừa
rồi để
tự xét nét lấy, coi có theo nổi không.
Nếu nhận
thấy được,
xin các thỉnh keo, xin keo
được rồi thì sẽ được
cho hầu đàn dự cúng lễ theo các đạo hữu.
Nếu muốn
theo thì thỉnh kinh về học
cho thuộc và lo sắp đặt
bàn thờ Thầy
theo đúng nghi thức
đã qui định của
qui điều nội
lệ Chiếu
Minh Tam Thanh Vô Vi.
Sau khi xét nét tự
kiểm điểm
kỹ càng có thể theo nổi đến
ngày cuối cùng đời mình, thì trở lại
để được
hầu đàn cơ cho ơn
Trên dạy. Nếu
được chấp thuận
chủ đàn thì lựa ngày nào tốt như
ngày rằm, đến
đàn xin keo để đốt hồng
văn, sẽ có người hướng dẫn Đạo
Pháp, công phu tứ
thời mỗi
ngày và chỉ cách thức giữ
gìn qui giới, từ cách sanh sống, ăn uống, ngủ nghê, không bỏ sót chi tiết nào. Người chỉ Đạo
có phận sự
hướng dẫn tận
tình cho người thọ pháp. Người thọ pháp phải tôn kính người đó mà tuân theo, vì
người đó thay Thầy để
truyền Đạo
cho mình, cùng đồng
chịu trách nhiệm chung như nhau trước thiêng liềng. Học
sư bất
như học
hữu; Đạo
Vô Vi, Sư Vô Vi trên có Thầy,
đức Cao Đài Tiên Ông bố hóa, dưới có bạn hiền
hướng dẫn, chỉ
cần đương
sự quyết
tâm cầu tu giải thoát, siêu độ tự
mình, pháp Đạo dầu có linh đến đâu mà người thọ pháp không cần chuyên, chịu cực
khổ sớm
trưa chiều
khuya, tứ thời
công phu tịnh luyện thì Pháp Đạo vẫn
không cứu được
mình.Chính mình phải
tự giải
thoát lấy mình, chớ Thầy
không bồng ẵm
mình được.
Vào tới Thất,
hai Thày lập tức được
mời vào uống trà đàm Đạo cùng Đàn chủ. Mùi trà sen thanh khiết, hòa trong gió của hồ
Dầu Tiếng,
hòa lẫn với
những tiếng
chim hót véo von trên cành, tưởng
như đang ngồi
ở một
động Tiên.
Nói tới
giếng Chùa hang hay giếng Trời,
không ít người Tây Ninh còn
nhớ truyền
thuyết về
ông Đạo Dừa.
Người "sáng lập" ra Ðạo Dừa
này là Nguyễn Thành Nam,
sinh năm 1909 tại
xã Phước Thịnh, tổng
An Hòa, huyện Trúc Giang, tỉnh Kiến
Hòa (nay là huyện
Châu Thành, tỉnh Bến Tre ). Ông là con của một
gia đình giàu có , cha tên Nguyễn
Thành Trúc,. làm chánh tổng
từ năm 1940 đến năm 1944 và mẹ là bà Lê Thị Sen.Năm 1928, ông sang Pháp du học tại
Rouen.Năm 1935, ông tốt
nghiệp kỹ
sư hóa học
và về nước.Xuất thân trong một gia đình khá giả ở
huyện Châu Thành, du học ở
Pháp với tấm
bằng kỹ
sư hóa học,
Nguyễn Thành Nam về nước,
lúc đầu tổ
chức sản
xuất xà phòng, nhưng vì không cạnh
tranh nổi, nên phải giải
nghệ Sau đó, ông bỏ lên núi tu khổ hạnh,
mỗi ngày chỉ ăn một
lần vào giờ Ngọ
bằng rau và hoa quả, uống
nước dừa Xiêm.. Năm 1945, ông đến chùa An Sơn ở
Bảy Núi, Châu Đốc , quy y cầu đạo
với hòa thượng Thích Hồng Tới
- Tu theo luật đầu đà, ông ngồi tại
cục đá trước cột Phươn
chùa suốt 3 năm, đêm ngày tịnh khẩu,
chịu đựng
gió sương, thân hình chỉ còn da bọc xương.
Năm 1950, ông trở lại
xã Phước Thạnh dựng
đài bát quái cao 14 thước,
đêm đêm lên ngồi hành đạo trên đài, choàng một manh áo, chịu đựng
mưa nắng
. Mỗi năm. ông chỉ tắm
một lần
vào ngày Phật Đản . Một
năm. sau , từ núi, ông về lại
Bến Tre, dựng một
túp lều ở cù lao Tân Long vào năm 1952. Sau
mấy tháng hoạt động,
thấy bất
tiện, ông về quê ở
ấp I, xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, mua một xà lan nhỏ, đậu
bên sông Ba Lai và dựng
một lều
cao trên một mẫu vườn
dừa, rồi
ngồi tu "tịnh khẩu".
Bên cạnh đó, ông cất nhà cho một số
chân tay phục vụ ở
và cho khách vãng lai có chỗ
trú ngụ . Kỹ sư
Nguyễn Thành Nam bắt đầu
xưng giáo chủ
của một
đạo lấy
tên là "Đạo Dừa". Tương truyền, đã có lần ông Đạo Dừa
tìm đường xuống hang giếng trời
. Chẳng thấy
biết được
điều gì mà từ đó ông tịnh khẩu
luôn.
Xin theo dõi tiếp
bài 9 - dienbatn.
_______________
Nguồn: sưu tầm





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét