CUỘC
CHIẾN GIỮA
CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 30.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
PHẦN 3 : NHỮNG CUỘC
LỮ HÀNH.
Hai hôm sau , Thầy
trò tôi đã có mặt
tại Sài Gòn . Thày Chàm dẫn tôi đi thăm những người
bạn già của Thày tại đây . Tại Sài Gòn có rất nhiều
cao thủ Huyền
môn đang sinh sống
và tu luyện . Thông thường các Thày sau khi tu
luyện trên núi , khi Hạ sơn
thường chọn Sài Gòn làm nơi hành nghề
và đón tiếp , giao lưu với
các cao thủ của môn phái khác . Chúng tôi đến một
quán Càfe tại Xóm Củi quận
4. Nơi đây là nơi
tụ tập
của các “ Linh Căn – Linh cẳng” của
cả Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Ông chủ quán cũng là người trong Huyền môn. Quán này chỉ có Càfe và mì chay nhưng ngày nào cũng có vài chục
vị “ Linh Căn – Linh cẳng” ngồi đồng.
Các vị “ Linh Căn – Linh cẳng” này rất lạ,
thường thì ngồi im , ngó mông lung người qua người lại , hoặc trò chuyện những
chuyện chẳng
ăn nhập gì đến Huyền
môn cả. Tuy nhiên , những người
trong Huyền môn sẽ biết
rõ họ là ai ,có thể tìm ở
đâu ? và họ có thể làm gì. Hai Thày trò chúng tôi chọn một
bàn nơi góc khuất
và kêu 2 cái Bạc sửu . Vừa
ngồi xuống
ghế , tôi bất chợt
thấy Thày Chàm cười nhạt một
tiếng và giơ ngón tay trỏ
vẽ một
vòng tròn trước mặt rồi
thản nhiên bê ly Bạc sửu
nhấp một
hụm. Cũng gần như
ngay lập tức
, tôi thấy những
làn sóng xung kích ào ạt
tràn tới khiến
như muốn
ngộp thở.Nhớ lời
Thày dạy, tôi cung tay lẩm bẩm
câu Chú tấn công địch thủ
có Bùa : “ Ý sơn nhơn ý thá má tế
ma tha hét thét gần
măng lầy căn hăng á “ . Hàng loạt tiếng
cười ầm ĩ nổi
lên khắp quán. Nhướng mắt nhìn xung quanh, tôi thấy một
vị còn khá trẻ ngồi
ngay cửa quán mắt trợn
ngược , xùi bọt mép ra. Thày Chàm chạy lại
vỗ lên đỉnh đầu
anh ta mấy cái , lập tức
anh ta tỉnh lại.
Lúc này , mọi người mới xích ghế ngồi
quanh bàn càfe chúng tôi ngồi
, cười nói vui vẻ, hỏi
chuyện Thày Chàm. Chuyện thường
ngày ở Huyện.
Tuy hình dong , bộ
dạng và hành động của
họ có vẻ
cổ quái , nhưng khi tiếp xúc nói chuyện với
họ , dienbatn thấy họ
vô cùng dễ mến và đáng tin cậy.Trong số những
người này , đa phần là những vị
hành nghề , soi căn , coi bói , giải thư
ếm , chữa bệnh
bằng bùa phép , Thày Ngải , làm phong thủy nhà cửa , đất
cát ….Trong buổi sáng hôm đó ,
Thày Chàm giới thiệu cho dienbatn làm quen và kết giao được với một
số đồng
Đạo mà về sau này , trên con đường Thiên lý của mình , dienbatn được họ trợ
duyên hết sức
hiệu quả
.
Chiều đó, chúng tôi đến thăm các vị tu tại
ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH . Đây là nơi thờ
tự và tu luyện của
các vị bên phái Thiên Khai Huỳnh Đạo của
Đạo Cao Đài. Theo lời dạy
của các vị tu tại
đây thì Thiên Khai Huỳnh Đạo
Theo chu kỳ của Tạo hóa, nay buổi tàn ngươn mạt pháp, Tam giáo thất chơn
truyền, nhân tâm ly tán, Tam ngươn một thuở
Thượng đế ban truyền Huỳnh Đạo để
mở lại
một cuộc
tuần hoàn dài 12 vạn 9 ngàn 6 trăm năm.Thượng đế thương
xót nhân loài trong cơn điên đảo
vì văn minh vật chất và dục vọng
đa đoan, nên Đức Thượng Đế ban truyền đây là thời kỳ Đại xá và độ tận
chúng sanh (nghĩa là chọn
lọc bậc
hiền nhân đức độ,
phân tà lọc chánh để phán xét Đại đồng
ở ngày Long Hoa đại hội,
đại xá nghĩa là tất cả
tội lỗi
xưa kia đều
xóa bỏ, không phân biệt kẻ
hiền, kẻ
dữ, ai cũng có thể được
nghe những chơn
lý đạo
đức hầu
hướng về con đường thiện).
Đạo Cao Đài được Đức Ngọc
hoàng Thượng Đế khai sáng từ năm Bính Dần (1926) với lời
tiên tri 36 năm thành Đạo.
Nhưng đến
36 năm (1962), vì cảnh
khảo đảo
của Ma Vương, Đạo
Cao Đài chỉ thành về mặt
vô vi với Huỳnh Đạo ra đời tiếp
nối.
Vì kỷ
nguyên Đạo
Vàng đệ
nhứt,
Nối
Cao Đài lãnh vực
phổ
hoằng,
Tam kỳ chiếu
diệu
hạ tầng,
Thiên Khai Huỳnh Đạo
chuẩn
thằng
Ngũ châu.
Sau đó do lời cầu xin của Đức
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại
Từ Tôn ban hồng ân cho “Tam niên đại xá”.
Vì thế tuy đã ban sơ từ
Hội Thánh Cao Đài Nhị Giang 1959 rồi về
Long Vân Đại Pháp Nam Thành
Thánh Thất ( Đường
Nguyễn Cư
Trinh Quận 1 ) và Long Vân Đại Đàn cuối năm 1961 nhưng mới
được Đức Thượng
Đế chánh thức ban truyền bắt
đầu từ
năm Nhâm Dần (1962).
Do Thiên cơ biến chuyển, từ
năm Nhâm Dần đến nay là 11 năm, Huỳnh Đạo gồm
có nhiều giai đoạn như
sau:
1/ Tam niên
Đại
xá:
Đó là bắt đầu
năm 1962, Đức Diêu Trì Kim Mẫu khải
tấu với
Đức Thượng
Đế xin “Tam niên ân thọ” để
cho các nguyên căn linh vị
trường chay, luyện pháp hầu trở
về ngôi vị ngàn xưa khỏi
sống lộn
với thú cầm.
Lòng từ bi của
Đức Mẹ
đã thể hiện:
“Ba sáu năm khai tuồng
Đại Đạo,
Để
ngày nay hoài bão nhuyên nhân,
Hai phen nhập
hóa thức
thần,
Thiên Khai Huỳnh Đạo
chuyển
trần
Tam Niên”
2/ Ngũ niên Chuyển
xá:
Bắt đầu
từ tháng 8 năm Giáp Thìn (1964). Vì
chánh pháp chưa minh, Đức
Thượng Đế và Đức
Diêu Trì Kim Mẫu gia ân thêm
“Ngũ niên chuyển xá” do sự cầu
nguyện của
chúng sanh và Thánh Thần
Tiên Phật khải
tấu. Và kể từ
đó Đức Di Lặc được
sắc chỉ
lâm phàm tái tạo Thượng ngươn.
Những phần
minh chứng điều
này như sau:
“Từng
cao vòi vọi
lưới Trời,
Thầy
minh còn rõ những
lời Phật Tiên.
Ân từ
Điệp
sắc “Ngũ niên”
Là phần
Di Lặc
quản
quyền
mà thôi”
Như vậy,
Ngũ niên chuyển xá là hồng ân đại xá và quản quyền
của vị
Đương lai Giáo chủ Long Hoa Hội Thượng
là Di Lặc Phật
Vương Thiên Tôn vậy.
3/ Tứ niên tuyển pháp:
Sau 5 năm ân xá là “Tứ
niên tuyển pháp” mà Đức A Di Đà Phật đã hội chung Tam giáo cầu xin Thượng Đế gia giảm nhân loài để tuyển
quy hàng Tam công hầu
dự hội
Long Hoa.
4/ Tứ niên hậu xá:
Lòng từ bi vô lượng, trước Tòa Tam giáo, kể từ
năm Nhâm Tý (1972) Đức
Hồng Quân Thượng Tổ ban ân cho “Tứ niên hậu xá” hầu kết
thúc cơ Long Hoa diễn biến.
Thầy đã dạy rằng:
“Truyền
Tam giáo ân hồng
Nhâm Tý
Kể
từ nay là kỷ nguyên hòa,
‘Tứ
niên hậu
xá’ Long Hoa
Của
Thầy
lập pháp gọi là cho chung”
1/ Căn bản:
Thiên Khai Huỳnh Đạo
đặt trên căn bản “Nhân, Nghĩa, Thành, Tín”
a) Nhân: là tình thương,
lòng từ ái không giới hạn
trong không gian và thời
gian.
- Đối nội:
(với mình) tự mình phải rèn luyện một
tinh thần đạo
đức nghĩa là phải có lòng khoan hồng, bác ái, việc gì cũng thuận theo lẽphải.
- Đối ngoại:
có lòng nhân đối với người
nghĩa là cái gì mà bản
thân mình mong muốn
thì đem ra thi hành cùng với
mọi người
và không bao giờ
bị tư
ý ràng buộc.
b) Nghĩa: là định rõ các phận cho điều hòa để xử
sự bất
kỳ trong mọi trường hợp cho phải lẽ
và hợp lý. Nghĩa với gia đình, nghĩa với xã hội nước
non, thấy điều
bất công mà ra tay tế độ
là người thi nghĩa vậy.
c) Thành: là sự thành thật không sai ngoa, dốc lòng tin tưởng vào một việc
gì. Có câu rằng: “Đạo gốc
bởi lòng thành, tín hiệp” nghĩa là Đạo, cái bổn gốc
của nó là do tâm thành khẩn và lòng tin tưởng mới có mà thôi.
d) Tín: là do sự
tin tưởng mà người khác đặt vào mình. Tín là điều kiện
thiết yếu
để thắt
chặt tình bằng hữu
và có sự tin cậy lẫn
nhau.
2/ Tôn chỉ: Trên mọi phương
diện hành Đạo, Huỳnh Đạo đặt
tôn chỉ là “Từ bi, Bác ái, Công bình”
- Từ bi: thấy sự
khổ đem lòng nhân, lòng hiền mà thương xót.
- Bác ái: lòng thương vô cùng rộng lớn.
- Công bình: không vị
nể, thiên lệch.
Phải thể
hiện đức
từ bi rồi
đi lần đến
bác ái, công bình, vì có từ
bi rồi mới
thương chung muôn loài vạn vật
thực hiện
đức bác ái, và từ đó mới
rõ lẽ công bình.
3/ Mục đích:
a) Cứu thế
lập đời:
Trong thời mạt
pháp, Huỳnh Đạo có sứ mạng
độ dẫn
nhân sanh hướng thiện hầu
lập lại
đời Thánh Đức thượng
ngươn.
b) Thống Ngũ chi, Quy Tam giáo: Nghĩa là
Huỳnh Đạo sẽ
quy Ngũ chi và Tam giáo gom về
một mối
là Trung ương, vì Huỳnh Đạo chính là Vô vi Đại đạo
dùng sắc Huỳnh nơi Trung ương Mồ Kỷ
Thổ.
c) Đoạt cơ
siêu thoát: Những Thiên phong Huỳnh Đạo sẽ
dùng Tam Thiên Bí Pháp (nam) và Di Đà Mật
Chỉ (nữ)
rèn luyện thành Kim Thân Thánh Thể giải
thoát trở về
nguyên vị và ứng
trợ cơ
Long Hoa` “đại vận
sát”.
Chơn truyền của
Huỳnh Đạo là chơn truyền của
Tam giáo, đầy đủ và trọn vẹn
hơn gồm
ba đặc điểm
về Sự,
Lý, Pháp.
a) Về Sự:
Huỳnh Đạo hiểu
theo lẽ cao nhiên chứ không tầm thường
như thế
nhân thường hiểu.
- Như về
hiếu, không phải chỉ
chăm nom phụng dưỡng mà phải trọn
dạ thương
yêu khi sanh tiền cũng như lúc quá vãng, nghĩa là cứu
vớt linh hồn Cửu
Huyền Thất
Tổ bằng
cách lập công bồi đức
vẹn vẽ
tu hành.
- Như tín, giữ
chữ tín vì do lòng thương yêu sợ người
khác đợi chờ,
nghĩa là vì người chứ không vì bản ngã cá nhân.
b) Về Lý: Với lý siêu từa, Huỳnh Đạo quan niệm cái lý trường miên thoát tục chớ
không ngắn ngủi
trong vòng trăm tuổi.
Quan niệm về
thân tứ đại,
không phải quá vì thân này mà cũng không ép
mình khổ hạnh
thân xác. Đó là lú siêu nhiên của
Huỳnh Đạo: “chơn và giả
phải đi đôi với nhau”.
c) Về Pháp: Huỳnh Đạo không chấp ở
hữu hay vô mà cả hữu
vô trọn vẹn,
gồm Tiên Thiên và Hậu Thiên ứng hóa, không nhắm vào một sự
ứng nghiệm, một
huyền linh nhất thời
nào về hữu
hình hay vô hình mà Huỳnh Đạo
chỉ nhắm
vào cái lẽ miên trường, vĩnh cửu nơi
cõi Thượng Thiên an nhàn tự toại.
Tóm lại, với
tôn chỉ và mục
đích rõ ràng, Huỳnh Đạo
không những là cơ Đạo
thuần túy dân tộc, lấy
đức từ
bi chan rãi cho tất
cả nhân loài, dụng lòng vị tha và xả kỷ
để độ
khắp trần
ai lánh mê giải khổ (tìm về con đường giải thoát siêu linh), mà Huỳnh Đạo còn là cơ duyên đại
kiếp, là cơ sảy
sàng tuyển trạch
những nguyên căn linh vị. Ai hữu phước,
hữu duyên nhứt lòng vì Thầy, vì Đạo thì sẽ được
ân hồng trong kỳ ba mạt pháp, lãnh bí truyền do chính ơn trên truyền
dạy để
hiển đoạt
thần thông hầu quy hồi cựu
vị. Còn người vì chốn mê đồ, danh bả thì ngày phán xét cuối cùng sẽ tường
minh phận số.
Thời kỳ này là thời mạt
pháp, bao cảnh tang thương bao hồi ly tán, Đức Thượng
Đế vì lòng hiếu sinh ban rãi cho nhân sanh mối Đạo
Vàng thâm diệu, thì nhân sanh
sau khi đã am tường
thấu đáo những yếu
lý cao siêu của Huỳnh Đạo hãy cố gắng
hồi đầu
hướng thiện học
chữ tu hành, trước là tự cứu
bản thân, sau là độ rỗi
linh hồn Cửu
Huyền Thất
Tổ được
siêu thăng tịnh độ.
Nam mô Huỳnh Đạo
cứu đời,
Thuấn
Nghiêu tái lập
ơn Trời nhuận ban.
Trong Thiên Khai Huỳnh Đạo
, khi đặt Pháp danh , đàn ông lấy chữ
Thiên , Đàn bà lấy
chữ Diệu
làm tên đầu Pháp danh .
Tại đây , dienbatn làm quen và
rất mến
với hai huynh Thiên Bảo và Thiên Nhiên Kỷ . Huynh Thiên Bảo trạc
ngoài 70 tuổi , trông mình
mai xương hạc , Phong Tiên Đạo cốt
. Huynh Thiên Nhiên Kỷ
khi viết bài trên Tuvilyso lấy bút hiệu DaoKy. Sự hiểu
biết và kiến thức
về Huyền
môn , về các tông phái Đạo giáo của hai Huynh hết sức
sâu rộng . dienbatn gặp được
hai Huynh Thiên Bảo
và Thiên Nhiên Kỷ
thật vui và học thêm được rất nhiều
kiến thức
mà mình còn khiếm
khuyết.
Thày Chàm cũng dẫn
tôi về thăm Tổ Đình Quốc Tổ
Lạc Hồng
tại Nguyễn Thái Sơn – Gò Vấp.
Tổ Đình Quốc Tổ
Lạc Hồng
tọa lạc
tại số
94 đường Nguyễn Thái Sơn Quận
Gò Vấp Thành Phố Hồ
Chí Minh đã được xây dựng từ
năm 1962 (lúc này tên đường
là Phan Thanh Giản)
là nơi để
người Việt tưởng
nhớ Tổ
Tiên, nguồn cội.

Vào năm 1962, ông kiến
trúc sư Võ Văn Tần
đã hiến 600m2 đất tọa
lạc trên gò mả đường
Phan Thanh Giản (nay là đường Nguyễn Thái Sơn) cho ông Phan Công Khâm dùng để
làm nơi thờ
tự dưới
danh nghĩa Hội Thánh Thiên
Khai Huỳnh Đạo.
Đầu
năm 1963, ông Phan Công Khâm, pháp danh Sơn
Hồng Đăng (Pháp chủ Huỳnh Đạo lúc bấy giờ),
cùng với ông Ngô Hoàng Dư (Chưởng
giáo Huỳnh Đạo) đã qui tụ số
đông bô lão trí thức
yêu nước thành lập ngôi thờ tự
dưới tên gọi Bửu
Tòa Di Lạc. Thành phần ban phụng tự
lúc này do ông Ngô Hoàng Dư
làm trưởng ban cùng với một
số tri thức cùng nhau cai quản ngôi thờ tự.
Ngôi Bửu tòa Di Lạc được
hoàn thành vào năm 1964 thờ
phật Di Lạc trên tầng gác, chánh điện thờ
Vua Hùng Vương, bên trái chánh điện thờ
Lạc Long Quân Phụ, còn bên phải thì thờ Hồng
Bàng Tiên Mẫu. Vào mùng 10
tháng 3 âm lịch – ngày giổ tổ
Hùng Vương và mùng 5 tháng 5 âm lịch – lễ Hồng
Bàng Tiên Mẫu có đông đảo đồng
bào qui tụ về lễ
bái trang trọng. Ngoài những ngày lễ thì ngày rằm và mùng một hàng tháng cũng thường xuyên có khách thập phương
về đây dâng hương.
Đến
năm 1969, ông Ngô Hoàng Dư
qui liễu. Ông Sơn Hồng
Đăng và các bô lão vẫn
tiếp tục
thờ cúng, tu bổ ngôi Bửu Tòa.
Đến năm 1975, ông Sơn Hồng
Đăng về sinh sống ở
Cần Thơ
và gửi cho ông Nguyễn Văn Bửu pháp danh Thiên Án làm trụ trì, trông coi hương hỏa. Đây là thời gian mà Thiên Khai Huỳnh Đạo hoạt
động rất
rầm rộ.
Đến năm 1993, ông Thiên Án qua đời, ông Sơn Hồng
Đăng trở lại
tiếp tục
tiếp quản
Bửu Tòa, giải tán Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo, và dẹp bỏ
những lễ
nghi không phù hợp
với việc
thờ Quốc
Tổ. Theo lời di huấn của
các bậc tiền
nhân gửi gắm,
ông Sơn Hồng
Đăng đã chính thức
chuyển đổi
ngôi Bửu Tòa Di Lạc thành Tổ Đình Quốc Tổ
Lạc Hồng,
hướng về nguồn
cội, thờ
phụng tổ
tiên theo nguồn gốc lịch
sử dân tộc. Thời
gian này , việc thờ cúng Quốc Tổ
Hùng Vương chưa được
công nhận nên mọi hoạt
động còn bị ngăn cản rất
nhiều từ
phía chính quyền.
Như vậy,
qua bao thăng trầm
đổi thay của thời
cuộc, vào đầu thập
niên cuối thế
kỷ XX, Tổ Đình Quốc Tổ
Lạc Hồng
đã chính thức ra đời ở
ngay trung tâm phía Nam của
tổ quốc.
Từ ngã năm công viên Gia Định đi theo đường Nguyễn Thái Sơn không xa, một
ngôi Tổ Đình trang nghiêm mang tên “Quốc Tổ
Lạc Hồng”.
Cửa chính đi vào là điện thờ
Quốc Mẫu
Âu Cơ, trên bệ
cao tượng Mẹ Âu Cơ,
được
đúc bằng đồng
từ những
năm 70 của thế
kỷ trước
theo hình vẽ của họa
sỹ Thụy
Lam, dáng đứng thẳng, mắt
nhìn về phương
Nam. Tay phải, Mẹ cầm
bó lúa, tay trái vuốt
nhẹ đầu
rồng, hai bên có cặp hạc
đứng trên lưng rùa chầu
Quốc Mẫu.
Hai bên vách trước
điện có đôi câu đối “Trông biển nhớ
ơn Cha”, “Nhìn non thương
nghĩa Mẹ” như
nói hộ tấm
lòng của hàng triệu đồng
bào tri ân Quốc Mẫu.
Tầng
gác phía trên điện
Quốc Mẫu
là nơi thờ
Quốc Phụ
Lạc Long Quân, sừng sững
ngay chánh điện là pho tượng Cha Lạc khoát áo Long Mã Phù Đồ tay trái cầm khúc tre, tay phải cầm
bụi lúa, ngồi xếp
chân, cặp mắt
to nhìn thẳng có thần sắc
uy nghi mà ai mới
nhìn lần đầu
cũng khép mình tôn kính.
Đi vào bên trong là Hùng Vương Bửu Điện
thờ Quốc
Tổ Hùng Vương. Pho tượng Vua Hùng, từ trước
tới nay không thay đổi, uy nghi đứng trên quả địa
cầu có năm rồng chầu.
trên tay trái của
Vua cầm kim ấn thể
hiện vương
quyền và trên tay phải cầm
thánh chỉ như
răn dạy cháu con noi theo di huấn.

Phía trước
Vua Hùng là cặp hạc đứng
trên lưng rùa ngẩng
cao đầu chầu
Quốc Tổ,
được đặt giữa
chánh điện là phiên bản trống
đồng ngọc
lũ, một trong những quốc
bảo của
nhà nước Văn Lang, để khách viếng thăm chiêm ngưỡng.
Trong các bức tường phía ngoài cổng đi vào , treo các tranh đề thơ
của nhiều
ẩn sĩ viết tặng
Tổ Đình.
Chối
từ trung hiếu với Trời xanh.
Còn kiếp
nào đâu để
tựu thành.
Sự
sống thời gian là hiện tượng.
Giác là vô diệt
– Ngô vô sanh.
THRT.
THỜI GIAN CÓ TRƯỚC CÓ SAU.
GIÁC NGỘ KHÔNG SAU , KHÔNG TRƯỚC.
Có những
niềm
vui rất
lạ thường,
Chìm trong ý niệm
, niệm
không vương.
Biến
thành năng lực
vô sanh , diệt.
Mở
khiếu
Đồ thơ , xóa
ngục
đường.
THRT.
Một dân tộc mất
đi nền Văn minh mẹ đẻ
thì sớm bị
nô lệ, muộn
sẽ đồng
hóa tiêu vong.
Hãy nhớ
tương lai nhiều biến đổi ,
Nhưng
không
đổi biến được hồn thiêng.
LẠC
LONG QUÂN PHỤ
-ÂU CƠ
MẸ,
Chờ
đợi vung tay Quốc lệnh truyền.
THRT.
Muốn
thoát ra ngoài phải
vào trong,
Chưa
thành
Tiên
, Phật
chớ
quên lòng.
Hạt
sen chẳng
bám nơi
bùn
, bụi.
Thì đến
muôn đời
chẳng
trổ
bông.
Công Hầu
Khanh Tướng
thủa
nào đây ?
Cùng một
lần qua ở lối này.
Thế
hệ đổi thay người cũ mới,
Mà mây còn trắng
vẫn còn bay.
………………………………..
Có phải
Hồn thiêng của núi sông,
Mất
đi từ
thủa
mất cha ông ?
Nay ta dựng
dậy Hồn sông núi,
Để
trả
Hồn thiêng lại núi sông.
THRT.
Một
cuộc
chia tay rất
diệu
huyền,
Của
Cha và mẹ
rất thiêng liêng.
Vì con trăm trứng
thời
gian biến,
Quên cả
tư tình
, hạnh
phúc riêng.
………………………………….
Trải
bao thế
hệ vẫn oai cường,
Dựng
nước Vua Hùng mở sử cương.
Hào kiệt
, Anh thư
thề
nối nghiệp,
Từ
trong bọc
trứng
nở yêu thương.
Vì Thày Chàm có việc
phải về
ngoài miền Trung nên dienbatn ở lại
Thành phố Sài Gòn tranh thủ thăm hỏi và giao lưu với
các Huynh đệ , tỉ muội
ở đây .
Hai huynh Thiên Bảo
và Thiên Nhiên Kỷ
trong thời gian này giành rất nhiều
thời gian và công sức , truyền đạt
lại những
hiểu biết
về Thiên Khai Huỳnh Đạo cho dienbatn . Vào một ngày đẹp trời
, tại Liên Hoa Cửu Cung Thủ Đức
, hai huynh Thiên Bảo
và Thiên Nhiên Kỷ
làm lễ Quán đảnh và nhập môn phái Thiên Khai Huỳnh Đạo cho dienbatn. Từ nay trong Thiên Khai Huỳnh Đạo , dienbatn có Pháp danh là Thiên
Hùng.
Cũng cần nói thêm một chút về Thiên Khai Huỳnh Đạo . Lịch
sử của
đạo Cao Đài gắn liền
với sự
phổ biến
Cơ bút tại
Việt Nam đầu thế
kỷ XX. Có thể nói, Cơ bút là nền
tảng căn bản cũng như mọi
yếu tố
liên quan đến quá trình hình
thành và phát triển
của tôn giáo Cao Đài từ quá khứ đến
hiện tại,
từ việc
thu nhận tín đồ, phong chức sắc,
ban hành luật đạo, các nghi thức cúng tế, phẩm
phục, kinh điển, thậm
chí đến các thiết kế
cơ sở
thờ tự
cũng được thông qua bởi hình thức Cơ
bút.
Hai hình thức Cơ
bút ảnh hưởng
đến sự
ra đời của
tôn giáo Cao Đài là thuật
Xây (xoay) Bàn (la table tournante) theo thuyết
Thông linh học (Spiritisme) của Allan Kardec đến từ
Pháp, và Đại ngọc cơ
(大玉機) xuất xứ
từ Trung Quốc.
Thiên Khai Huỳnh Đạo
là một nhánh của cao Đài cũng sử dụng
Cơ bút là chính . Nhánh này có nhiều
đóng góp trong việc
giải khai những Huyệt Đạo
bị Trấn Ếm
trên toàn cõi Việt
Nam .
Bát quái Thiên đồ trận tại Liên Hoa Cửu cung – Thủ Đức .
Từ
ngày nhập môn theo phái Thiên Khai Huỳnh Đạo , dienbatn được các huynh Thiên Bảo và Thiên Nhiên Kỷ dẫn
đi hành lễ nhiều nơi
, nhưng chủ
yếu tại
Liên Hoa Cửu cung – Thủ Đức
và tại ĐIỆN
ĐÀI THÁI BẠCH Phú Nhuận . Biết rằng
các Huynh Đệ, Tỷ Muội
của phái Thiên Khai Huỳnh Đạo thường
đi giải khai Huyệt Đạo
bị Trấn Ếm
trên toàn cõi Việt
Nam , một bữa
, dienbatn hỏi Huynh Thiên
Nhiên Kỷ : Anh có rành về thuật
Phong thủy – Địa
lý không ? Rất ngạc nhiên , Huynh Thiên Nhiên Kỷ hỏi
lại : Thế đệ
cũng biết về
Phong thủy – Địa
lý hay sao ? dienbatn liền
kể về
gia đình mình đã mấy
đời làm Địa lý ở
Hà Nội và đã được ông nội và cha dạy cho môn này từ hồi
còn rất nhỏ
. Tuy nhiên vì trình độ
rất hạn
hẹp nên còn vô số những
yếu quyết
được truyền dạy
mà không hiểu được . Suy nghĩ một lúc Huynh Thiên Nhiên Kỷ nói : Để ngày mai Huynh sẽ dùng Cơ bút chép lại
cho đệ một
số kiến
thức cơ
bản về
thuật Phong thủy – Địa
lý nhé.
Quả nhiên , chỉ 2 ngày sau , Huynh Thiên Nhiên Kỷ đưa
cho dienbatn một sấp giấy
dày ghi dày đặc chữ . Huynh nói : Đệ về
xem và chịu khó suy nghĩ
nhé.
Ngay đêm đó , dienbatn đọc
ngấu nghiến những
trang giấy mà Huynh Thiên Nhiên Kỷ đưa
cho . Quả thật
là một chân Trời mới
rộng mở
trước mặt . Nhân đây cũng xin chia sẻ với
các bạn một
chút hiểu biết
về Phong thủy - Địa Lý mà Huynh Thiên Nhiên Kỷ nhận
Điển giao cho. Cũng xin đốt một
nén Tâm hương tưởng nhớ về
một người
anh lớn đã đưa dienbatn những bước
chân đầu tiên vào Thiên Khai Huỳnh Đạo .
Xin theo dõi tiếp
bài 31. dienbatn.
_______________
Nguồn:
sưu
tầm








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét