CUỘC
CHIẾN GIỮA
CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 26.
NHỮNG
NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ
phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN
MÔN. Đó là những tháng ngày vô
cùng vất vả,
trải nghiêm đủ Hỉ-
Nộ- Ái - Ố của
dienbatn . Cũng đã qua từ
lâu rồi , xin kể lại
để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ
và Đời sống
.
Khi nhập môn, võ sinh của Thất
Sơn Thần
Quyền học
bài vỡ lòng là bài khấn tổ:
Nam mô tổ sư
tam giáo đầu
sư Dương
Gia, Chàng Lía, cha Hồ, chúa Nhẫn, tổ
sư Hải
Đề Long núi Tô về cảm
ứng nhậm
lễ chứng
miên cho đệ tử…”.
Sau đó, người võ sỹ được
học những
bài chú kêu gọi các đấng siêu nhiên nhập xác (như lên đồng)
ứng chiến gọi
là chú “thỉnh tổ”: “Nam mô thập phương
chư phật,
chư vị
đại Thần
đại Thánh đại Hải,
chư vị
Bồ tát…thập bát La hán, Bát quái Tổ sư… Án Lỗ ban tiên sư phù, Lỗ
Ban đại sát, dụng hưng
yên bất dụng
hương đăng hoa quả vật
thực chơn
hình trợ kỳ đệ
tử thần
tự…hội
Tà Lơn Thất
Sơn, 5 non, 7 núi, rừng rú, tổ Lục,
tổ Lèo, tổ Xiêm, tổ Mọi,
tổ Chà đồng lai đáo hạ hộ
giá quang minh, chấp
kinh trì chú cứu thế trợ
dân cấp cấp
như luật
lịnh sắc”.
Điều này cho thấy các nghĩa quân kháng chiến ngày xưa đã áp dụng
bùa Lỗ Ban có xuất xứ
từ Trung Quốc vào hệ thống
“âm công” của Thất Sơn
Thần Quyền.
Về quyền
thế, Thất
Sơn Thần
Quyền có nhiều bài hay như: Linh miêu đoạt thạch,
Tam sơn trấn
ải, Mãnh hổ tọa
sơn… Vào thập
niên 1960, Thất Sơn Thần
Quyền kể
như không tồn
tại nữa
mà chuyển thể
thành Thất Sơn
Võ Đạo.
Thất Sơn
Võ Đạo
là những quyền thế
dương công của Thất
Sơn Thần
Quyền. Tuy không còn yếu tố
huyền linh nữa nhưng
Thất Sơn
Võ Đạo
cũng tạo được
tiếng vang trong làng võ Nam Bộ thời
ấy.
Thời điểm
này, phong trào võ thuật
vùng Nam Bộ rất sôi động, nơi
nào cũng có võ đường
Thần Quyền:
Sa Đéc có lò võ Sáu Cường;
Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy
Biển ở
Kiên Giang; Ba Hoằng
ở Long Xuyên. Nhiều võ sư tạo
được tiếng vang nhờ đào tạo được
những võ sỹ vô địch
trong các trận đấu võ đài. Đến tận
ngày nay, những võ sư ấy
vẫn còn được nhiều người
nhắc như:
Hai Diệp, Mười
Nho, Nguyễn Mách, Út Dài,
Thiên Đường.
Họ thường
tổ chức
thi đấu tại
Chợ Lớn
(quận 5) mang tính giao hữu với
các quốc gia trong khu vực như
Campuchia, Hồng Kông. Trong
những cuộc
đấu giao lưu ấy,
nhiều võ sỹ Việt
Nam đã tạo được
sự thán phục của
các võ sư, võ sỹ
nước ngoài.
Báo chí thể thao dạo ấy
đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ Thần
Quyền như:
Võ sỹ Minh Sang có đường quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn có cú đấm
nhanh như chớp
và cú húc chỏ “hồi mã thương”, võ sỹ Chhit Sarim (người Campuchia theo học Thần
Quyền).
Thày Chàm cứ rủ rỉ
rù rì kể cho tôi biết bao nhiêu điều thú vị về
môn học này. Theo Thày được nghe kể lại
:
“ Kể từ
đầu lịch
sử, người
Việt luôn phải đấu
tranh chống lại
nạn ngoại
xâm, nhất là những đạo
quân của các triều đại
Trung Quốc. Hàng lọat cuộc
chiến đấu chống
ngoại xâm, đòi lại chủ
quyền đất
nước từ thời
Hai Bà Trưng
và Bà Triệu, chống
Tống ( năm 981 và 1077) chống Nguyên Mông ( năm 1258, 1285,
1288), chống
Minh ( từ 1418-đến 1428) và chống Thanh ( năm 1789). Chính
vì những cuộc chiến
đấu đó, mà võ Việt và tinh thần thượng
võ hình thành. Võ là phương
tiện cho người Việt chống
các nạn
ngoại xâm được mệnh danh là võ ta.
Võ sư Võ Kiểu
(nguyên tổng
thư ký Liên đoàn Quyền
thuật miền
Trung): cho rằng Võ ta đã gắn bó với dân tộc ta từ hàng ngàn năm qua, nó mang một vẻ
đẹp không môn phái nào trên thế giới
có được, nó không chỉ là một
môn võ phòng thân, chống
lại bao giặc thù hàng ngàn năm qua mà còn là một lối
sống, một
nhân sinh quan, một
tư tưởng
vô cùng quan trọng
trong hệ thống
tư tưởng
Việt . Đánh mất tên gọi “võ ta”, là chúng ta đã vô tình
đánh mất luôn cả cái hệ tư
tưởng Việt quý giá ẩn chứa
trong môn võ vô cùng đẹp
này!
Võ cổ truyền
Việt được dùng để chỉ
những hệ
phái võ thuật lưu truyền trong suốt trường
kỳ lịch sử
của dân tộc Việt
, được người Việt sáng tạo và bồi đắp
qua nhiều thế
hệ, hình thành nên kho tàng những đòn, thế, bài quyền, bài binh khí, kỹ thuật
chiến đấu
đặc thù. Với những
kỹ pháp võ thuật này, người Việt đã dựng nước,
mở mang và bảo vệ
đất nước
suốt trong quá trình lịch sử
Việt
Bộ võ khí bằng đồng
hiện được
trưng bày trong bảo
tàng lịch sử
Việt có thể giúp ta hiểu thêm về nhiều
loại võ khí thuộc lãnh vực Võ cổ truyền
Việt . Những thứ
vũ khí này gồm dao găm, rùu gươm và giáo. Đó là những thứ
võ khí được sử dụng
trong khi đánh giáp lá cà. Sử
dụng những
thứ võ khí này đòi hỏi phải
có sự can đảm, sức
dẻo dai, sự khéo léo và kỹ thuật
thành thạo.. Chính những yếu
tố này đòi hỏi người Việt phát triển các hình thức chiến
đấu nhằm
tạo thuận
lợi và nâng cao hiệu quả
sữ dụng
vũ khí
Võ cổ truyền
Việt không những nhằm
giỏi võ thuật mà còn nhằm tự
kiểm soát, hoàn thiện mình và rèn luyện những
bí kíp về thần
, khí, ý và lực.
Đặc điểm
của Võ thuật cổ
truyền:
Thường là võ trận, sử
dụng trong trận mạc,
chiến đấu
chống ngoại xâm, chinh phục thiên nhiên hoang dã, chống trả
và săn bắt hổ,
lợn rừng,
bảo vệ
nhà cửa, làng xóm, chống trộm
cướp.
Thích hợp với
nhiều loại
địa hình.
Thực dụng,
linh hoạt.
Dĩ công vi thủ, dĩ nhu chế cương,
dĩ đoản chế
trường.
Các bài quyền đều có lời thiệu
bằng thơ,
phú
Muốn luyện
thành thạo phải
luyện với
thiên nhiên nơi có khí trong lành, để
tăng khí công trong người,
khi đó ra đòn sẽ
mạnh hơn.
Từ thế
kỷ 15 đến
thế kỷ
19, võ thuật tồn tại
ở hai cấp độ:
bình dân ( tại các lễ hội)
và triều đình ( chương trình chuyên rèn luyện và thi võ).....
Nhóm Nam Bộ
ở miền Nam.
Các phái võ Nam Bộ
xuất hiện
cùng với quá trình định cư
của nhóm người Việt ở
miền nam trong thế kỷ
18-19. Sau khi đứng
chân ở nam Trung Bộ, các chúa Nguyễn tiếp
tục mở
rộng lãnh thổ xuống
phía nam và di dân từ
Quảng nam, Đà nẵng, Quy Nhơn vào khai khẩn
đất hoang tại đồng
bằng sông Cửu Long. Triều Nguyễn con lưu đầy
nhiều tội
phạm vào nam. Vì thế, nhiều
người Việt ở
miền nam xuất thân từ các vùng có truyền thống
võ nghệ, và bản thân họ cũng rất thành thạo nghệ
thuật chiến
đấu.
Cuối
thế kỷ
18, bị bại
trận trước
quân khởi
nghĩa Tây Sơn, tàn quân nhà nguyễn bỏ
chạy xuống
phía Nam, rồi quy tụ về
vùng Đồng nai. Tại đây, họ tuyển
mộ các võ sư để
rèn luyện binh sĩ phục thù. Sau khi nhà Nguyễn được
thành lập năm 1802, nhiều người
vùng này vượt qua được các kỳ thi võ của triều
đình và theo đuổi
binh nghiệp.
Võ Nam bộ
có nguồn gốc
khác nhau: Bình Định,
Thanh Hóa, Nghệ An, đồng bằng
sông Hồng và Trung Quốc. Đó là sự pha trộn của
nhiều môn phái với những
kỹ thuật
được biến cải
cho phù hợp với điều
kiện cụ
thể ở
miền Nam, trong đó có nhu cầu tự
vệ trước
thú dữ và khai khẩn đất
canh tác mới.
TRÊN NÚI CÔ TÔ.

“ Phụng
thỉnh năm non , bảy núi. Phụng thỉnh
núi Sam, núi Sập, Núi Cấm , núi Két , núi Tô, núi Tổ . Phụng
thỉnh Tà Lơn – Thất
Sơn. Phụng
thỉnh chư
vị Phật
Tổ. Phụng
thỉnh Phật
ông , Phật bà. Phụng thỉnh
Phật Thầy
, Phật cô. Phụng thỉnh
bà Tổ , mẹ
Tổ. Phụng
thỉnh 5 ông Tổ . Phụng
thỉnh Tam Giáo Đạo Sư
. Phụng thỉnh
tiền Tổ
hậu Tổ
. Phụng thỉnh
thập nhị
Tiên khai. Phụng thỉnh 12 vị Tổ.
Phụng thỉnh
Thiên binh , Thiên tướng
. Phụng thỉnh
thập nhị
Sơn Thần.
Phụng thỉnh
12 vị quan Tà á rặc. Phụng
thỉnh Tà Muôn, Tà Bạch , Tà Gầm , Tà Hầm, Tà Há , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Két , Tà Rắn , Tà Hồng , Tà Sanh , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Gầm , Lục
Tặc Tà Hom , Tà Lơn ,Thất
Sơn , Ông Lục
Tà Rù , Ông Chúa lèo , Ông Tà Đỏ.Phụng thỉnh
12 đạo binh rừng, binh rú, binh mọi, binh rợ, tướng
Lèo hồi cung thanh thỉnh. Hộ
độ cho đệ tử
tên … tuổi …được
thành công đắc đạo.
Nam mô a di đà Phật.Hắc tô hắc nây – Ô ta thia ly âm.Cà thăn săn
– rặc rặc
ơ.Mơn
mơn lừng
lừng che.”
Phải
mất đến
3 ngày hôm sau , thày trò chúng tôi mới
yên vị được
trong một cái Cốc được
dựng từ
một vòm hang đá , xây dựng sơ
sài trên đỉnh
núi Cô Tô. Cái cốc
này là của một
người bạn cũ Thày Chàm cho chúng tôi sử dụng
nhờ.

Trước
khi lên núi , Thày Chàm bắt
tôi cố công học thuộc
bài khấn ở
trên để khấn
các vị Thần
ở đây.
Núi Cô Tô (gọi
tắt: núi Tô), tên chữ: Phụng
Hoàng sơn , tên Khmer: Phnom-Ktô; là một ngọn
núi trong Thất Sơn, thuộc xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, Việt Nam.
Núi Cô Tô cao 614 m, dài 5.800 m, rộng 3.700 m. Vì ở một
vùng bán sơn địa
và vì do cấu tạo địa
chất đặc
biệt, nên nhiều nơi
bên trong núi là một hệ
thống hang động ngầm
như tổ
ong lớn, rất
kiên cố và vững
chắc. Vì vậy, khu vực núi Tô có nhiều điểm
đáng tham quan. Các hang động
ở đây được giới Huyền
môn sử sang lại làm thành những các Cốc dùng để làm nơi tu luyện. Nước
sử dụng
nơi đây đều
lấy từ
những khe nước chảy ra từ khe núi trong vắt. Sườn
phía Tây núi Cô Tô là Đồi
Tức Dụp
hay Tức Chóp (tiếng Khmer) có nghĩa nước quanh năm. Bên
phía Đông núi Cô Tô là một
hồ nước
có vẻ đẹp
hoang sơ, nước
hồ luôn xanh biếc và phẳng lặng
có tên là Hồ Soài So . Những lúc rảnh rổi
, Thày Chàm đưa tôi đi thăm các điểm quanh Núi Tô như Mũi Tàu, Mũi Hải,
Vồ Hội
lớn, Vồ
Hội nhỏ,
suối Cây giông, Pháo đài và Bàn chân
tiên.
Người
Khmer gọi “Phnom-Ktô” để chỉ
ngọn núi cao 614m này, còn người Việt thì quen gọi là núi Cô Tô. Với tên gọi khá hoa mỹ là “Phượng Hoàng Sơn”, Cô Tô như
ẩn chứa
chút gì đó nét riêng tư
mà từ lâu đã mặc nhiên mang dáng hình kiều diễm
nhất của
vùng Thất Sơn
huyền bí! Có phải chăng do sự cấu
trúc đầy kỳ bí của thiên nhiên đã tạo nên những khối
đá xếp chồng
chất lên nhau qua sự sắp
bày đầy tính sáng tạo của
bàn tay vô hình nào đó. Dưới
những tảng
đá nặng nề
ấy là những kẽ
đá lớn, nhỏ
hình thành nhiều hang động, ngỏ ngách đến sâu thẳm mà từ lâu được người địa phương
gọi là “lò ảng” giống như
một mâm trứng chất
đầy từ
dưới lên trên. Đó là ngọn “đồi
con” nằm cạnh
chân núi Cô Tô đã đi vào lịch
sử và huyện thoại
dân gian ...
Truyền
thuyết kể
rằng thuở xa xưa,
khi trời đất
còn tối tăm, dãy Thất Sơn
còn đầy
vẻ hoang sơ... các tiên ông từ
núi Cấm, núi Giày đã cùng nhau khiêng từng phiến đá xếp chồng
lên nhau, xếp mãi cho đến lúc bình minh thì thành hình trái
núi, vào một đêm trăng
sáng, các nàng tiên rủ
nhau sang núi ngắm
trăng, vui chơi thoả thích, hết đàn hát lại bày trò vui. Nhưng cuộc
chơi nào rồi
cũng nhàm chán, họ
cùng nhau thi ném đá từ
trên núi xuống... đến khi ánh trăng khuất dần
thì một trái núi nhỏ cũng hiện trong bóng mờ của
màn đêm, dưới chân núi lại có dòng nước chảy qua lấp lánh như những
thỏi bạc...
nước chảy triền
miên, chảy đến
tận làng mạc quanh vùng làm xanh ruộng đồng,
cây lá! Và từ đó trái núi nhỏ bé ấy
được mang tên là “Đồi nước
đêm”, người Khmer gọi là “Tức Chúp” còn người Việt thị
đọc trại
ra thành “Tức Dụp” đến
ngày nay. Trong thời
chiến tranh ác liệt nơi
đây được
coi là một trong những “tử
địa” khủng
khiếp nhất
của ngoại
xâm!
Nằm
giữa những
cánh đồng bao la, bát ngát, ngọn núi Cô Tô khoác trên mình vẻ đẹp
hoang sơ, kỳ vĩ say đắm lòng người. Những ngôi nhà được xây dựng trên các vách đá dựng đứng,
từng rặng
cây đung đưa theo gió như cơn
sóng biển đang gợn từng
cơn, đem lại
khí hậu mát mẻ quanh năm.
Có nhiều
cách để leo tới đỉnh
núi, bằng cách đi xe ôm hay xe máy . Đối với
những ai yêu thích khám phá và thử thách có thể đi bộ
men theo những bậc thang, ngôi chùa, các bụi cây và những hàng cây cổ thụ,
vừa đi vừa cảm
thụ khí trời thiên nhiên. Nếu các bạn đủ
gan dạ, thuê một chuyến xe ôm từ chân núi chỗ mấy
quán nước, quán ăn lên đỉnh Cô Tô chỉ hết
vài chục ngàn . Những chiếc xe máy này được thay lại toàn bộ nhông xích để tăng lực kéo , như những
con ngựa hoang tung vó đưa bạn
lên đỉnh núi. Ngồi đằng
sau lưng của
những anh xe ôm bản xứ,
bạn tự
nhiên thấy tim như muốn
thót lại. Con đường chỉ khoảng
2 gang tay , ngoằn
nghèo, trơn trượt và dựng đứng
lướt như bay dưới tay lái lụa của
bác xe ôm. dienbatn cùng Thày Chàm đã vượt
qua những đỉnh
dốc khúc khuỷu, trơn
trượt của Cô Tô , lên chiêm ngưỡng vẻ đẹp
của những
vồ trên núi , thấy được
những cây vạn tuế
hàng mấy trăm năn tuổi trên đỉnh núi Cô Tô. Trên hai vồ Thượng
và Trung , hàng năm có rất
nhiều người
trong giới Huyền
môn về đây ngồi nhận
điển . Tại
khu vực này , điển rất
mạnh , mà theo đánh giá của nhiều
người trong Huyền môn , ngồi tịnh
ở đây một đêm bằng nhiều tháng ở nhà.
Cô Tô được
nhiều du khách chọn là nơi hành hương
bởi trên núi có rất nhiều
ngôi chùa và miếu
thờ, du khách sẽ được
phục vụ
ăn uống, ngủ nghỉ
và tìm hiểu về đời
sống chay tịnh nơi
đây. Tại đây, du khách có thể ngắm
nhìn những cánh đồng lúa vàng, làng xóm và cảnh sông nước hữu tình, bạn sẽ
có cảm giác như đang ôm trọn
cả thế
giới vào lòng mình.

Cảnh
Cô Tô.
Dienbatn cùng các đồng Đạo trên núi Cô Tô.
Thất
sơn Thần
quyền chính là một môn Võ Đạo của
người Việt Nam được hình thành từ thế
kỷ 19 , do các Đạo giáo của vùng Thất sơn
( Bửu sơn
kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao đài, Hòa hảo...), dựa trên những sở
học về
Huyền môn của nhân loại , nhất là các phái Huyền môn Nam tông (Phật giáo nguyên thuỷ- Nam tông (Theravada) có bề dày lịch sử
rất lâu đời, sự
truyền thừa
được các sử gia thừa nhận
là không bị gián đoạn. Điểm
ưu việt
của nó là truyền bá đến quốc
gia nào vẫn giữ được
nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống
khác rất hiếm
có. Phật giáo nguyên thuỷ hiện
nay có mặt ở
những quốc
gia: Tích Lan, Miến
Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia,Nepal, Ấn Độ
v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất
trong truyền thống Nguyên thuỷ, chư
tăng tụng kinh bằng tiếng
Pali và tiếng bản ngữ
, tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của
bậc xuất
gia, chỉ ăn ngày một buổi,
không ăn phi thời.
).
Tuy cùng một
nguồn là Thất sơn
Thần quyền,
nhưng do quá trình truyền thụ
, tam sao thất bản mà hiện nay tùy theo vùng , miền mà môn phái Thất sơn
Thần quyền
rất khác nhau . Không chỉ nguồn
gốc của
môn mà ngay các thủ
tục, quy cách trong quá trình tu học cũng bị “tam sao thất bản”
rất nhiều
nên phổ biến
trong nhân gian những
thủ tục
khá rườm rà khi nhập môn, dẫn đạo
và thực hành công năng.
Khi nhập
môn, môn đồ của môn phái TSTQ phải đứng
trước ban thờ thề
đủ 9 điều
(càng học cao thì số lời
thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người
sẽ được
sư phụ
mình phát cho hai lá bùa hộ
thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền
và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái.
Trước
khi truyền thụ
những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được
đem đốt, lấy
tro hòa vào nước cho người mới nhập
môn... uống cạn.
Thần chú của môn phái thì có rất nhiều,
gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương...
Đã được
truyền thần
chú thì môn sinh cứ
tự mình gọi chú mà xin sức mạnh,
mà tập quyền
cước.
Thày Chàm nhờ
người xuống núi mua đầy đủ
đồ để
làm lễ nhập
môn cho tôi . Đồ
lễ cũng khá đơn giản
: Ngoài bức ảnh của
Phật bà Quán Thế Âm ra , chỉ có chút hoa , quả , trà , nước, rượu mà thôi.
Đêm rằm
của tháng đó , dưới sự chứng
kiến của
một vài vị học
Huyền môn trên đỉnh Cô Tô , Thày Chàm làm lễ nhập
môn TSTQ cho tôi . Thày Chàm cùng tất
cả mọi
người làm lễ khấn
chư Phật
, chư vị
Thần , Tiên , Thánh và cõi cõi về chứng
giám.
Sau đó bắt
đầu từ
những câu chú Hội Phép :
* " Cung thỉnh
Phật Tổ
, Phật Thày, chư Phật
Bồ Tát 10 phương . Thiên linh - Địa
linh, Nhật minh, Nguyệt tinh , Tạo hóa trường sinh. Cung thỉnh chư
Thần 5 non 7 núi , Sơn Thần,
Thổ Thần,
Thủy Thần,
Thần Hoàng bổn cảnh
, Thái Ất cứu
khổ Thiên tôn, Thái cực tả
cung Cát tiên. Lôi công ấn
ẩn thân pháp . Tam vị Thánh Tổ, tam vị Thần
hổ,Ngũ vị Lục
Tổ, Cửu huyền
thất Tổ,
Tổ sư,
Tổ Thày , chư vị
Tổ Cô. 12 ông Lục , 12 ông Tà , chư vị
Thần xà, các đạo binh chư Thần
vô danh, chư vị Ngũ hành ...."
* " Phụng
thỉnh 5 non 7 núi . Phụng thỉnh
Núi Sam, Núi Sập, Núi Cấm , Núi Két, Núi Tô, Núi Tổ. Phụng
thỉnh Tà Lơn Thất
sơn. Phụng
thỉnh chư
vị Phật
Tổ, phụng
thỉnh Phật
ông, Phật bà, phụng thỉnh
Phật thày , Phật cô , Phụng thỉnh
bà Tổ, mẹ
Tổ. Phụng
thỉnh 5 ông Tổ. Phụng
thỉnh Tam giáo Đạo sư,
Phụng thỉnh
thập nhị
Tiên khai, Phụng thỉnh 12 vị Tổ.
Phụng thỉnh
Thiên Binh, Thiên tướng
, phụng thỉnh
thập nhị
sơn Thần
. Phụng thỉnh
12 vị quan Tà Á rặc - Phụng thỉnh
Tà Muôn, Tà Bạch, Tà Gầm , Tà Hầm, Tà Há, Tà Sấm, Tà Sắc, Tà Sét, Tà Rắn, Tà Hồng . Phụng thỉnh
12 đạo binh rừng, binh rú , binh Mọi, binh Rợ , tướng
Lèo hồi cung thanh thỉnh....."
* " Vận
chuyển thập
nhị Thần
Tà : Tà Mun,Tà Ná , Tà Vẹt,
Tà Thần, Tà Khé Khét, Tà Khao, Tà Mao, Tà
Hom, Tà Rút, Tà Mặc
…..”.
*" Tiên sư,
Tổ sư,
Tam giáo Đạo
sư, thập
nhị công nghệ, tiền
Tổ , hậu
Tổ Phật
Tổ , Phật
Thày, Quan Âm Phật
. Nam mô a di đà Phật
, nguyện cùng chủ thất
chủ tri, nguyện cùng lớn thượng
giúp rày cho con.
Nam mô a di đà Phật
, chư tiền
, đức Tổ
sư, liệt
vị Tổ
sư.
Nam mô adi đà Phật
, vận chuyển nhị
thập Thần
Tà : Tà Mun, Tà Ná, Tà Vẹt,
Tà Thần, Tà Két, Tà Khao, Tà Mao, Tà Hom,
Tà Rút, Tà Mặc Thống chế
5 ông, phò hộ , phò âm , phò
dương, phần hồn
, phần xác cho đệ tử
tên ....tuổi..."
Sau đó Thày Chàm cầm
bó hương đã đốt
sẵn lần
lượt thổi vào các Huyệt Đạo
của dienbatn từ đỉnh
đầu tới
tận lưng
rồi xuống
chân. Với môn sinh là nam giới thì dùng 7 nén nhang thổi 7 lần
vào mỗi huyệt
đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần. Mỗi
làn hơi Thày Chàm thổi
vào ,người tôi tựa như
có những lằn
điện chạy
ngang dọc, nối
thông các Đại Huyệt bắt
đầu từ
Thượng Đài,chạy vòng xuống Huyệt Ngọc
Chẩm rồi
xuống Huyệt Giáp Tích.Rồi bắt
đầu chuyển từ
Huyệt Giáp Tích xuống Huyệt Vĩ Lư,tới
Huyệt Trường
Cường,sau đó tách ra làm
hai bên và đi vòng xuống
hai chân .Tiếp tục hít hơi vô,cảm
thấy 2 làn Điển quang từ ngoài chạy vào 2 ngón chân cái (Cảm thấy
mát lạnh ),chạy trở
lên Huyệt Trường
Cường rồi đến
Vĩ Lư , lên nữa
cho đến Giáp Tích và ngưng lại
đó . Bắt đầu
chuyển tiếp
từ Giáp Tích ra hai tay ,chạy đến
2 ngón tay cái thì ngưng
lại .Sau đó lại bắt
đầu có hai lằn Điển
chạy vào từ 2 ngón tay đến Giáp Tích rồi lên Huyệt Ngọc
Chẩm,đến
Thượng Đài rồi trở
lại Huê quang . Như vậy
là đã đi hết một vòng Châu thiên . Đêm hôm ấy, xong nghi thức nhập
môn, sư phụ
đã kéo tôi ra sân và chỉ
trong vòng 1 giờ
đồng hồ,
ông đã truyền thụ xong xuôi cho tôi lời chú xin quyền.
Theo lời
của Thày Chàm , lời chú ấy tôi tuyệt đối
không được phép tiết lộ
cho bất kỳ ai nếu chưa
được
phép của những
người đứng đầu
môn phái.
Chính vì vậy
ngày xưa Thầy
Tổ có truyền lại
:
" Một đêm nọ Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư , Pháp
sư con nghe ta dạy,
Ấn
tướng và Pháp chú - Là bí
mật hiển vi.
Của
Phật
, Hiền,
Thánh chúng.
Có cảm thì có ứng,
Và không thể giải thông.
Cũng không thể tạo khuôn,
Đệ
tử muốn gia trì,
Hoặc
truyền
Đạo đại chúng.
Nên nhớ là lúc tập và lúc niệm,
Năng tinh tấn chuyên cần.
Và hành nơi vắng lặng.
Không cho ngoại Đạo niệm.
Bởi
ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc khích nhiễu.
Đây là một nghiêm luật.
Đệ
tử chiếu phụng hành . "
" Có một
cấp bậc
điểm đạo
tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới
trình độ đó không chỉ được
tạm thời
giải thoát khỏi thể
xác vật chất
để chứng
minh sự tồn
tại của
linh hồn, mà còn được đưa lên những
cảnh giới
thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại
thể của
vũ trụ. Kinh nghiệm huyền
diệu đó giúp phá vỡ sự
cố chấp
hữu hạn
của con người và do đó mới có thể tiếp
xúc với sự
hiện hữu
chân thật trường
cửu của
hết thảy
mọi sinh thể. Trong một thời
gian ngắn, người
môn đồ được
cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu
với thực
thể của
muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi,
nhưng giây phút cảm
thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối
với cuộc
đời. Người
môn đồ ấy
đã chia sẻ một phần
cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận
được. Người ấy xem như đã khám phá được
cái ánh sáng huyền
diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của
bản thể,
mà so với nó thì thể xác vật chất
này chỉ là giả tạm
và vô nghĩa. Vì thế,
người môn đồ sau khi được điểm đạo
đã thật sự
được hồi sinh trở lại,
theo đúng ý nghĩa cao cả
nhất của
danh từ này.
Như
thế, cuộc
điểm đạo
là sự đạt
tới một
viễn cảnh
mới của
cuộc đời,
cái viễn cảnh
tâm linh mà nhân loại
đã đánh mất trong thời dĩ vãng xa xăm, khi rơi từ
“Thiên đàng” xuống
cõi vật chất.
Khoa huyền môn giúp ta thực hiện
sự trở
về nguồn
cội ngay từ bên trong, và đưa ta đi tuần
tự từ
bước một đến
sự giác ngộ hoàn toàn. Khoa huyền môn hé mở cho ta thấy trước
hết là những cảnh
giới tâm linh huyền bí vượt ngoài giới hạn
nhận biết
trong cõi vật chất của
trần gian, và sau đó tiết lộ
cho ta những điều huyền
diệu rốt
ráo và tính chất thiêng liêng của tâm thức con người. Khoa huyền môn giúp cho người môn đồ nhìn thấy được
những cảnh
giới dường
như địa
ngục âm ty để thử
thách tâm trí và lòng kiên quyết,
cũng như để
người ấy được
có dịp học
hỏi và mở rộng
tầm nhận
thức. Kế
đó, người môn đồ được
nhìn thấy những
cảnh giới
Thiên đàng tốt đẹp để
khuyến khích và ban ân huệ. Nếu
khoa huyền môn vẫn phải
dùng đến phương
tiện đồng
thiếp thì điều đó không có nghĩa là không còn phương pháp nào khác. Đó chỉ là một
phương tiện được
áp dụng, nhưng cảnh
giới tâm linh có thể được
đạt tới
bằng nhiều phương
cách khác nữa, và không cần phải
áp dụng phương
pháp xuất thần.
Tuy nhiên, lịch
sử của
nhân loại luôn luôn theo định luật
chu kỳ, những gì đã từng xảy
ra, sẽ tái diễn trở
lại. Một
lần nữa,
con người đã trải qua một thời
kỳ hỗn loạn
và hắc ám, trong khi đó lại cảm
thấy một
sự băn khoăn bất mãn do nhu cầu tự
nhiên của bản
tính con người là muốn lặp
lại sự
giao tiếp với
cảnh giới
tâm linh huyền diệu huy hoàng. Bởi vậy,
hy vọng rằng
những điều
kiện sẽ
có thể được
tạo nên, những hoàn cảnh thuận tiện
sẽ đến
và những nhân vật đủ
thẩm quyền
và khả năng sẽ xuất
hiện, để
nhờ đó mà một lần
nữa trên địa cầu
này sẽ được
tái lập tổ
chức huyền
môn, dưới những hình thức hoàn toàn mới mẻ
tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với
thời đại
tân tiến hoàn toàn khác hẳn với
thời đại
cổ xưa.
"
" Những
vị đạo
đồ trong khoa huyền môn thời cổ
phải long trọng tuyên thệ là không bao giờ tiết
lộ những
gì xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng,
dù sao thì lễ điểm đạo
cũng chỉ được
cử hành mỗi năm cho một số
rất ít môn đồ. Sự
hiểu biết
giáo lý mật truyền không bao giờ được
ban bố cho nhiều người
cùng một lúc. Bởi lẽ
đó mà không một nhà văn thời cổ
nào đã đưa ra được
một tường
trình đầy đủ
và mạch lạc
về những
gì được gọi là giáo lý huyền môn, vì các vị môn đồ luôn giữ đúng lời cam kết một
cách chặt chẽ.
Những
chân lý được truyền dạy
trong các đạo viện huyền
môn là do sự tiết lộ
mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ
lúc phát sinh những
nền văn minh cổ xưa
nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được
giữ gìn nguyên vẹn để
duy trì sự tinh khiết của
nó. Như thế,
người ta hiểu tại
sao khoa huyền môn được ẩn giấu
cẩn mật
và giữ gìn chặt chẽ
ngoài tầm tay của kẻ
thế nhân phàm tục.
Tại
sao những vị
đạo trưởng
lại có một sự
dè dặt vô cùng chặt chẽ
như thế?
Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết
được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần
phải loại
những kẻ
hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần
bí dẫy đầy
nguy hiểm cho tánh mạng của
người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm
thường.
Ngoài ra, rất
có thể là có nhiều người,
vì không đủ sự chuẩn
bị sẵn
sàng cho một kinh nghiệm như
thế, sẽ
trở nên điên cuồng hoặc
thiệt mạng
sau cuộc thử
thách. Bởi đó, lễ điểm
đạo luôn luôn chỉ là đặc
ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người
đã gõ cửa cầu
xin điều đó ở
các đền huyền
môn nhưng vô ích. Những
người khác, bị đặt
dưới hàng loạt những
cuộc thử
thách sơ đẳng
mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ
sự gan góc cần thiết
để tiến
xa hơn nữa,
hoặc cảm
thấy lòng ước muốn điểm
đạo nguội
bớt dần.
Về
sau, sự sa đọa
vật chất
của con người đã làm cho các vị đạo
trưởng chân chính của thời
xưa dần
dần biệt
tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục,
và thay chân các ngài là những
kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ
thấp khoa huyền môn cao cả. Những
kẻ bất
chính, có tham vọng
đạt được
những phép thần thông của bàng môn tả đạo,
sau cùng đã chiếm
ưu thế
để giành quyền kiểm
soát các đạo viện huyền
môn .
Những
gì từ lúc nguyên thủy vốn
là thiêng liêng, chỉ
dành cho những người chọn lọc
nhằm mục
đích duy trì ngọn
lửa thiêng tinh khiết của
sự sống
tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ
tà tâm, buôn thần
bán thánh. Đó là những
sự kiện
lịch sử,
làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của
nhân loại thời
cổ xưa
đã trở nên suy tàn. " ( Theo Ai Cập huyền
bí ).
Truyền
chú xong, Thày Chàm bảo,
cứ nhẩm
theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc...
ra đến đó. Ngay đêm hôm ấy, thầy
Chàm đã kéo tôi ra khoảng
sân rộng trước
Cốc , bắt
đầu luyện
tập quyền
pháp. Trước khi tập, thầy
lấy nắm
nhang nghi ngút khói thổi
vào tất cả
những huyệt đạo
trên cơ thể
tôi . Làm xong, thầy
bảo tôi nhẩm đọc
chú để... gọi
võ về. Thật
ngạc nhiên, khi vừa đọc
chú xong, tôi bỗng
thấy mình lâng lâng như người
say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng,
lúc thì thấy nặng như
đang khuân cả khối
đá trăm cân. Tự nhiên thấy mình nhẹ bẫng,
một cách vô thức , tôi như bay lượn trên sân tập , hai tay , 2 chân bung ra những cú chặt, chém, cú đá xé gió kinh hồn. Người
tôi như bay như lượn
, lăn lộn suốt
từ đầu
này sang đầu kia sân tập mà không có chút nào mệt mỏi
. Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến tôi lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng
tưng trên không, lao đầu
vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết. Chỉ
cho tới lúc Thày Chàm nắm lấy
bàn tay tôi , đọc
chú Ặc Rin thì lúc đó tôi mới như
tỉnh lại
.
Theo dõi tiếp
bài 27. dienbatn.
_______________
Nguồn:
sưu tầm









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét