CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 19.
NHỮNG
NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ
phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN
MÔN. Đó là những tháng ngày vô
cùng vất vả,
trải nghiêm đủ Hỉ-
Nộ- Ái - Ố của
dienbatn . Cũng đã qua từ
lâu rồi , xin kể lại
để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ
và Đời sống
.
 
Tiện
thể đang nói về nàng Thăm , tại miền
Bắc Việt
Nam , dienbatn đã phát hiện
ra loại Nàng Thăm hoa vàng.

Ngải
Nàng Thăm hoa vàng  được
tìm thấy ở
phía bắc trên núi Ba Vì thuộc TP Hà Nội . Cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng  là cây sống ở
vùng núi ẩm thấp và chịu được
khí hậu lạnh
giá của mùa đông ( vì cây không ngủ đông ). Cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng  có thân
bò trên mặt đất , không hình thành rõ thân hay củ của
cây .
   Lá của
cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng  có hình
thúc giống hệt
lá của cây ngải Nàng Thăm nhưng nhỏ
hơn một
chút , lá bầu nhọn 2 đầu
cuống lá dài 5cm – 7cm , có sống lá ở giữa
, mặt trên lá có mầu xanh biếc và bóng , mặt dưới
lá có mầu xanh nhạt và có một lớp
lông tơ mịn
nhỏ li ti . Các ngọn non đều có mầu đỏ
tía .
 Hoa của cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng  có hình
thúc giống hệt
hoa của cây nàng Thăm , hoa gồm 3 cách to và 2 cánh nhỏ hơn
. So sánh thì bông hoa Ngải Nàng Thăm hoa vàng  to hơn bông hoa ngải
nàng Thăm , toàn bộ
bông hoa Ngải Nàng Thăm hoa
vàng  đều có một mầu
vàng tươi rực rỡ
.
Hoa cây Ngải Nàng Thăm hoa
vàng  ra từ
nách lá phía gần ngọn . Khác với đài hoa nàng Thăm , Ngải Nàng Thăm hoa vàng  có một đài hoa ngắn có chừng 5 bông hoa nhìn như một
bàn tay có 5 ngón nhô lên . Nếu
một chậu
ngải Ngải
Nàng Thăm hoa vàng  tốt
, có nhiều ngọn
thì sẽ cho rất nhiều
hoa . Hoa Ngải Nàng Thăm hoa
vàng  nở bắt từ
giữa mùa xuân , tức là khoảng đầu
tháng 3 sang tháng 4 . Hoa Ngải
Nàng Thăm hoa vàng  tồn
tại không bền chỉ
được khoảng 2 đến 3 ngày thì tàn . Dù chỉ tươi
2 đến
3 ngày nhưng nhìn chậu Ngải
Nàng Thăm hoa vàng  khi nở
hoa thì thật là tuyệt đẹp
.
 Dù sinh trưởng
ở phía Bắc , cũng như những
cây ngải ở
phía nam thì cây Ngải
Nàng Thăm hoa vàng  cũng có nhưng
công năng về huyền
thuật mà công năng lại rất
mạnh , có lẽ do có sắc hoa mầu vàng . Những bông hoa được thu lượm buổi sáng sớm sẽ
được các thầy cho vào chai dầu thơm
hay nước hoa ngâm rồi đem luyện , nếu
được kết cùng với ngải
Mẹ bồng
con và nàng Thăm lại
để luyện
dùng trong lĩnh vực
tình cảm thì tác dụng sẽ
cực mạnh
. Ngoài ra cây Ngải
Nàng Thăm hoa vàng  cũng có thể
kết hợp
với cây ngải Cau và cây ngải Mọi
hoa vàng dùng để
luyện Ngải
mách rất tốt
. Một điều
là cây ngải mai thuộc loại
cây cũng khó tìm kiếm
đối với
các thầy ở
trong vùng thất Sơn , vì loại
ngải này chỉ có mọc
ở phía Bắc  thôi .
Ngải Nàng Thăm tím có ruột đen , thường người ta gọi là Ngải Đen và tương truyền có nhiều truyền thuyết , giai thoại về
nó .
“ Còn nói về chuyện thư
trù bằng ngải
đen, là truyền thuyết của
các thầy khác nữa. Như
muốn trả
thù phải nuốt
1 củ ngải
đen (không được nhai ),kế đó hàng ngày đúng giờ ngọ
phải ra miếu hoang hay nghĩa địa ngồi
xổm ,phất
2 tay áo phần phật trong gió cho mạnh ,miệng kêu tên người có thù mà rủa bằng
các lời cay nghiệt nhứt.Thỉnh thoảng lại
phải vuốt
tóc mình ,vuốt lông mày mình
,lại phất
tay áo ,cứ vậy hàng ngày .Khi nào đi cầu(đi tiêu) mà củ ngải
đen lọt ra ngoài ,thì lấy củ
ngải đó liệng vô nhà kẻ thù ,sau đó 3 ngày ,kẻ thù nhứt định
qua đời vì đủ mọi
lí do !
Ngải đen còn có thể thư
trù ( Thmup) có cách nuôi ngải đen bằng huyết của
chính vị thầy
chủ nhân ,khi lấy củ
ngải thì phải đốt
bằng móng và da con trâu cổ thật
già ( trâu đực ) để hơ
củ ngải
cho thật ráo.Khi thầy muốn
thư trù ai ,hay ai mướn thầy làm ( thường thì phải nêu rõ lí do trả thù và thề là nói đúng sự thật
,nếu nói dối ,người
bị trù sau khi chết rồi
thì kẻ mướn
trù sẻ bị
mù và điên ,con cái trong nhà sẽ
chết yểu
đến mấy
đời).Khi đêm đến ,vị
thầy sẽ
lấy tên tuổi nạn
nhân và người mướn trù ra cúng thần ngải
và tác bạch việc
mình muốn làm ,sau đó ông thầy lấy
vật tuỳ thân của nạn
nhân như tóc ,khăn tay..vv..để
vô 1 cái chén sành thật
cũ úp lên ( chén nhặt
tại các gốc cây ,khi xưa chén bát ,bình vôi cũ thường
được dân làng đem vứt bõ tại các gốc cây to trong làng )rồi lấy
cái áo của kẻ
mướn trù ra , đặt 1 cái lưỡi câu cắm cá lóc (đã từng lấy
trong miệng cá ra ) đặt lên đít chén ,phủ cái áo lên chén ….sau đó nhai củ ngải
đen và niệm thần chú gọi tổ
ngải … phun thật mạnh
ngải lên cái áo. Sau đó giở cái áo lên xem lưỡi câu còn không?Nếu lưỡi
câu còn thì ông lại
để áo lên phủ lại
nhai ngải phun lần nữa
2 hay 3 lần mà thôi. Nếu lưỡi
câu vẫn còn thì số người
bị trù sẽ không chết ,nhưng
sẽ bịnh
nặng và làm ăn bại xụi
1 năm.Nhưng nếu
cái lưởi câu kia biến mất
thì người ấy sẽ
chết sau 100 ngày !...ban đầu là đau đầu ,biếng
ăn … ngủ hay mớ ….về
sau ăn nhiều mà ốm dần
…bụng chướng
lên ,mặt vàng đi ,2 ống chân phù ra …đường chỉ trong 2 bàn tay và chân mờ nhạt
dần ……đến
60 ngày thì bụng chướng lớn lại
hay có cục gù như nắm
tay nổi lên di chuyển như
1 sinh vật ,lúc chạy vòng vo ,khi lại trồi
lên hụp xuống
ở vùng bụng.Đây là thời điểm
thuỷ triều
hay lên hoặc xuống ….Người bịnh tối
khi mơ ,khóc lóc ,hay tự
vạch trần,
hài tội chính bản thân mình hay người liên kết tội
lỗi với
mình !Từ khoảng
90 ngày đến hơn 100 ngày là lúc tử vong .
Đã ếm thư
với ngải
đen thì không có việc
làm vào ,mở ra !Nếu như
bùa chú có cột có mở ,thì việc nầy
không thể với
ngải đen.Vì nó phải trả
giá bằng chính sinh mạng của
thầy thư
ngải hay của con trai ruột của
thầy (hoặc
con gái )
Theo tương truyền ,thầy
nào thư ngải
đen hại người
,nếu lấy
3 mạng ,thầy sẽ
mù 1 con mắt ,nếu lấy
7 mạng ,thầy sẽ
đui trọn 2 con và tuyệt tự
,tức con cháu trong nhà tự nhiên mắc bịnh
hoạn,tai ương lần lượt
từ trần
!
Các thứ thuật
thư chài bằng
cá rô hay con rắn
nhỏ vào bụng ,thư da trâu ,thư miễng
sành chén cũ ...chỉ
có thể thực
hiện với
sự hổ
trợ của
ngải đen mà thôi !Vì vậy nên các thầy ngải
xem ngải đen là ngải vương
vô địch
!
Còn việc khác nữa từ
ngải đen, như lấy
mồ hôi người ta ( vắt từ
cái áo ướt khi mới đi đồng về
) cho ngải đen vào ,sau đó đánh bẩy chim (bẩy sập
) nếu được
2-4-6 con thì không ,nếu
được 3-5-7 con thì nhỏ mồ
hôi vô miệng chim thả bay đi ,người kia sẽ bỏ
đi biệt xứ
không về nơi
sinh quán ,thoảng hoặc
có về thì lại đau bịnh ,bức
bối tinh thần ,lại
mau chóng rời đi !” ( Phayan
).
Để Thư
người khác bằng hình nhân và Ngải đen , nghe đâu các Thày ngải làm như sau :
LỄ VẬT
KHI CÚNG: 01 đèn cày trắng
lớn+ 01 con gà trống làm rồi ( lóc bỏ thịt
còn bộ xương,
rửa xương
cho sạch, lau khô )+10 con ruồi+ thịt
gà xay nhuyễn trộn bột
mỳ+ chỉ ngũ sắc thắt
thành hình đuôi sam.
Dùng rơm nếp
tết thành một hình nhân cao 20 cm để dựng
đứng lên. Lấy ảnh
người cần thư
dán úp mặt vào hình nhân. Lấy 7 kim gút găm vào ảnh , 4 cái 4 góc ảnh, 2 vào mắt, 1 vào đỉnh đầu.
Thịt gà, trộn bột
mỳ, chỉ ngũ sắc và 10 con ruồi đem quết lên cây đèn cày trắng dựng
đứng.
Bàn lễ : có 01 đĩa muối gạo,
19 lá trầu, 7 trái cau, 01 đĩa huyết heo sống, 5 cây nhang, đĩa trái cây , lọ bông, 07 cái lưỡi lam cắt ¼, 07 kim băng bẻ chữ
tử, giấy
tiền vàng bạc cúng binh.
Làm lúc 12g đêm , kê bàn lễ
ngoài sân. Làm liền
trong 7 đêm.
Trong thời gian luyện , giữ hình nhân trong nhà. Các đồ cúng thì hàng ngày đem đốt đi. Số lưỡi
lam và kim băng gói vào tờ
giấy đem chỗ mồ
mả hay trong chậu ngải
đen chôn và thắp hương lên trên đến
khi luyện xong, rải muối
gạo lên trên. Đèn cày trắng và thịt gà đem thả trôi sông, trước khi thả , cắt
đôi hay 3 cây đèn cầy.
Sau 7 ngày đem hình nhân ra đốt
là lấy tro rải vào nhà người cần thư.
Viết vậy
để có thể hình dung ra công việc của
Thày Ngải khi làm , còn các câu chú thì
dienbatn không thể
tiết lộ
ở đây.
Ngải đen còn có tác dụng đòi nợ rất
hữu hiệu.
Ai có người nợ lâu , có tiền mà không chịu trả
, tìm đến các Ngải sư
. Sau khi tra hỏi
thật kỹ
và bắt người
thỉnh phải
thề thốt
trước Thày Tổ . Lúc đó Thày Ngải mới
chịu lập
Đàn đòi nợ.
Dùng 49 ngọn đèn cầy xếp
thành hình ngôi sao, người
luyện ngồi
vào giữa, vào 12h trưa và 12h đêm , liên tục
trong 7 ngày ( không bỏ
cữ nào , nếu bỏ
là vô tác dụng ) , người luyện tuyệt
đối kiêng rau diếp cá, thịt chó, ớt và tỏi ( kiêng tuyệt đối
). 
Đồ cúng : 3 con gà con đã làm lông, 9
thứ bông, 9 loại trái cây , 49 ngọn đèn cầy, một
mâm cúng cho binh gia một
cữ trưa,
một cữ
tối ( gạo,
muối, cháo, 12 chén cơm nhỏ
).
Để chậu
Ngải trên bàn cúng và đọc câu chú sên vào dầu thơm
, mỗi lần
đọc 108 biến . Tập
trung khi đọc chú , khi luyện có kết quả
sẽ thấy
dầu thơm
trong chai sôi
lên là có thể bắt
đầu sử
dụng. Bó 49 cây nến thành hình ông sao. Nếu nến
đỏ thì buộc chỉ
trắng ( dùng trong đòi nợ thường
) , nếu dùng nến trắng
thì buộc chỉ
đỏ ( dùng khi thư hay đòi gắt
gao ).
Lấy củ
Ngải đen , phun rượu có ngâm trà 3 ngày liền để
cho sạch. Khi cần đòi nợ , cắt
một lát mỏng , đọc 2 bài chú trên và xếp vào miếng vải
đỏ hay vàng gói lại, không được đút túi quần. Kiêng ăn thịt chó , trâu , rắn , cá có vẩy, khế
- Đọc tên chủ đòi nợ và sai nàng Ngải đen đi làm. Làm như vậy
thì đố ai có thể trốn
nợ được.
“ Muốn thỉnh
cây ngãi từ rừng về
:
1.Trước hết cần
bầy lễ
vái xin vị chủ thổ
và chúa ngải rừng xanh ,12 cửa rừng
,36 vạt núi ,72 sơn động,sau
đó lấy ngải
bọc vào vuông vải đỏ
cho kín , để hồn ngải
không thể quay về rừng,niệm thần
chú kêu hồn ngải về
với thầy
, điều cần
thiết phải
có là chôn lại món vật tuỳ thân nào đó của thầy
ngay tại chổ
lấy ngãi …ví dụ cây bút ..mắt kiếng
râm ..vv
2.Khi lấy ngải
không nên lấy trọn cây ,chỉ nên lấy phần
củ mà thôi ,và không nên lấy củ
còn non …nếu là ngải tình thì sau khi gói cũ vào vuông
vải đỏ,nên
cột ngay vào bắp vế
phải của
mình ,bên trong quần
.
3.Lể vật
cúng ngải đều
là chay như nổ rang , đậu phọng
nguyên vỏ ,xôi đậu ,nước
từ cây chuối ,ba nắm cơm
trắng ,hoa đỏ có hương
thơm ,không cần
thiết phải
thắp hương.
4.Chỉ cúng huyêt cho 1số ít ngải dạng
công phạt mạnh
như Ma lai ngãi ,Chúa đinh ngải ,Chúa sát ngải ,Chúa chàng dâu ngãi , ô mách rạch ngải
……lúc ấy người
ta dùng huyết con gà có mầu lông trắng ,còn gọi là gà gi,chỉ lấy
huyết mồng
gà nhỏ lên lá chuối tuơi
bầy cúng ,còn lại phải
thả con gà ấy vào rừng ,tuyệt đối
không được giử lại
(không dùng được huyết của
bất kỳ động vật
nào khác ).
5.Thầy ngải
Xiêm còn có cách đem theo 1 pho tượng
có hình dáng Phật
hay người ngồi xếp
bằng , đáy tượng rỗng ,họ
phãi nhét sao cho đầy
củ ngải
tại chổ
vào pho tượng , đó là các
loại ngải
mách ,ngải sai ,ngải phụ
trị tà .
Nếu là ngải tình thì họ dùng pho tượng có hình thù ngồi chồm
hổm ,hay ngồi dang rộng 2 chân ,bày sinh thực khí ra ….sau khi nhét ngải vào tượng ,họ liền
dùng chỉ đỏ
to sợi quấn
nhiều lần
quanh tượng ,với những
bài chú buộc hồn ngải
phải xác nhập vào tượng mãi mãi.
Các pho tượng nầy bình thường không thể ngồi
,nhưng khi thầy ngải
niệm đến
đủ số
lượng biến chú cần thiết
,pho tượng sẽ tự
bật ngồi
dậy …do đó ,họ gọi
là cặp lật
…cặp là 1 đôi đủ cả
2 hình nhân nam và nữ
……tương truyền ,nếu
tách 1 trong hình nhân nầy
ra đem nhúng nước ,rồi bỏ
vào thúng úp lại , đi đâu chừng 1 giờ sau ,về mở
thúng ra xem ,sẻ
thấy đủ
cả đôi trong thúng .
Đấy là đến mức
suốt đời
vị thầy
không thể rời
xa ngải nghệ
ông đã khổ luyện , ông phải truyền đôi hình nhân nầy cho ai đó ,rồi mới
xuông xẻ nhắm
mắt mà lìa trần ,nếu
chưa tìm ra người
kế vị
, ông sẻ khôg thể đi xuôi ! đôi lúc là người mà ngải chọn
,có thể chưa
hề biết
học thuật
về ngải
,thậm chí còn không biết đọc
biết viết
!”
LUYỆN NGẢI
CHẬU – NGẢI KHÔ VÀ DẦU THƠM
.
Ngải Chậu
là cây ngải tươi được
bứng từ
rừng về
hoặc được
gây giống ra mà trồng ở
trong chậu để
luyện.  Ngải khô là củ ngải
đã đào từ bụi
ngải trong rừng đem phơi sương
nắng cho thọ khí âm dương 3 ngày đêm thì đem vô nhà cúng và luyện.
1/Luyện ngải
chậu.
Luyện ngải
chậu cách hay nhất là kiếm 7 cái đầu ông táo (miếng trên có nhiểu lổ
của cái lò đất) bỏ
hoang nơi chùa, miểu,
đình thần... Đem về đập
nhuyễn trộn
với đất
thiên nhiên, tuyệt
đối không dùng phân (bất cứ
phân gì). Sau đó lấy
một miếng
chì khắc tên hay viết chữ
bùa Tom (cột) để dưới
đáy chậu. Dùng vỏ sò Lông cho 3 đồng xu cổ vào, lấy đất
bùn trét lại và đặt ngửa
dưới đáy chậu.Lấy
một trứng
gà sống dùng mực đỏ
vẽ thêm chủ dụng
mà pháp sư muốn luyện
cho chậu ngải
đó. Ví dụ như
Ngải Yêu, Ngải Ăn Nói Ngoại Giao, Ngải Cầu
Tài, Ngải Quan Tự Tất
Thắng (Ra tòa thưa kiện
đều thắng
kiện)...
Bùa cho vào đáy chậu
có hình như sau :
Có thể thực
hiện những
bước như sau. Gỡ hết
đất trong gốc ngải
ra, kiếm tra xem còn sót củ ngải
nào không, nếu còn thì gỡ hết
củ ra, tỉa lá ngải cho gọn lại,
cho bùa vào chậu sành, trồng ngải
vào chậu và tụng kinh cho ngải, sau khi tụng kinh thì có thể đặt
tên cho nó. Từ nay không được gọi là Ngải mà phải gọi
theo tên mình đã đặt.
Tuyệt kỵ,
khi chưa được
49 ngày thì không được
bắt ngải
thực hiện
bất cứ
việc gì, hãy chăm sóc bình thường bằng cáh cho nước và thắp nhang đều đặn.
Thứ 3, khi trồng ngải
thì ngải sẽ
theo tính nết của ngừoi
trồng nó, nghĩa là nếu gặp
chủ độc
ác thì cây này sẽ
cực kỳ độc ác, nó có thể thanh toán cả chủ
nó, gặp chủ
ngải có lòng nhân từ và thiện ý thì nó sẽ là 1 cây ngải quý, giúp ích cho đời rất
nhiều. lưu
ý; Ngải vốn
có tính linh, không được
thóa mạ chửi
bới ngải,
nếu có hiện tượng
đó thì chủ nhà sẽ gặp
những chuyện xui xẻo, thậm
chí là mất mạng.
 “Lễ vật
để cúng khởi đầu
cuộc luyện
rất đơn
giản chỉ
gồm: 3 trứng gà sống, một
dĩa gạo và muối, 1 ly nước lạnh, 3 chung rượu trắng, 1 dĩa nổ (nếp
rang hay bắp rang bong vỏ). Đốt
hai cây đèn cầy bên cạnh. Đốt
3 cây nhang cắm vô chậu ngải.
Khởi sự
luyện ngải
phải là vào lúc chạng vạng
(lối giờ
Dậu). Đầu
tiên pháp sư niệm Chú (thần chú) hội ngải
(3 lần), Chú thỉnh 36 mẹ tổ
ngải (3 lần) sau đó Chú nguyện, van vái tên họ tuổi
của mình (người luyện), ngày, giờ, năm, tháng... Tôi muốn luyện
chậu ngải
gì... thì nói ra (có thể
luyện hai hay ba thứ ngải
cùng một lúc). Sau khi tác bạch xong thì định thần,
bắt ấn,
niệm chú và sên (thổi) vô chậu ngải.
Luyện như
vậy chừng
15 phút là được. Khi cây ngải cao lối 2 tấc
thì luyện chừng
21 ngày liên tục thì ngải đã biết chào thầy. Chào là khi thầy niệm
một câu Chú hỏi thăm, lá ngải sẽ
đong đưa qua lại về
hướng thầy, mặc
dù lúc ấy trời
không có gió... Và cứ
tiếp tục
luyện cho đến khi thấy như
có bóng trắng thoáng ẩn hiện
là ngải đã có thần. Trong thời gian luyện ngải,
ông thầy tuyệt
đối không được ăn tỏi sống
vì tỏi nặng
về trược,
được nhà Phật liệt
vào ngũ vị tân (tỏi, hành, hẹ, nén, kiệu) mà các vị xuất
gia đều phải
kiêng cữ... Và cứ tiếp
tục luyện
như vậy,
càng lâu ngải càng mạnh. Mỗi
tháng cúng ngải 2 lần vào ngày mùng 2 và ngày 16 âm lịch như
bên Bùa cúng binh, tướng vậy. 
Đến một
thời gian nào đó đã đủ thì pháp sư chọn
ngày thâu ngải, cũng nhang,
đèn, trứng, nổ...
Khấn vái đợi khi tàn nhang thì đào gốc lấy
củ đem vô nhà, việc đầu
tiên sau khi rửa sạch là pháp sư phải
cắn một
củ nhai liền, có như vậy
thì ngải mới
mến và phục tùng thầy lâu dài...! Sau khi để lên dĩa đặt ngay bàn thờ binh, tướng đối diện
bàn tổ (Bàn binh thấp, bàn tổ phải
cao hơn). Pháp sư bắt
đầu đọc
chú kêu ngải ở với
mình. Các loài ngải
rất linh, tính ý ngải như
các cô gái e dè, dịu dàng nhưng dấu
kín những phong ba. Khi luyện các thầy phải
vuốt ve, thủ thỉ,
nói chuyện với
ngải như
nói với các cô tình nhân. Thế cho nên từ trước
tới nay, các ngải sư
cao tay, vang tiếng
đều cô độc không vợ, không con vì nếu các nàng ngải biết
thầy lấy
vợ là hè nhau vật hoặc
phá vợ thầy
đau rề rề
không hết, khó làm ăn lắm. 
Các loại ngải
ở Việt
Nam, Miên, Thái, Lào hay dùng đều
cùng loại nhưng
khác thổ âm địa
phương đôi chút mà thôi. Người Việt hay gọi các loại ngải:
Nàng Thâm, Nàng Mun, Nàng Xoài, Nàng Gù, Nàng Trăng, Nàng Hồng, v.v... Đều là tiêu biểu cho phái đẹp. Nói về pháp lực thì ngải rất
mạnh và nhạy, chắc
ít nhiều trong chúng ta nghe qua trong dân
gian này trước hay nói đại khái như: Cô nọ
xách giõ đi chợ tự nhiên có một bà xa lạ đến
nói vài câu, cô nầy
bỗng đờ
đẫn, tháo dây chuyền, bông tai, chiếc lắc
đưa cho bà xa lạ đó, chừng 10 hay 15 phút sau mới hoàn hồn thì bà xa lạ kia đã đi mất rồi!
Đó chính là công năng của
ngải. Bùa không thể làm con người mất cả
hồn vía như vậy.
Về mặt
lý tính thì nuôi ngải
cũng đơn giản
như ta nuôi con chó con mèo vậy thôi. Cho nó ăn đều, vỗ
về vài câu mỗi ngày là sai nó làm gì, nó làm cái
đó không hề phân biệt thiện
ác trước khi làm. Do đó những phù thủy có tà tâm bất chánh thường luyện ngải
để trục
lợi.” ( Sương Mãn Thiên ).
Xin xem tiếp bài 20.
dienbatn.
_______________
Nguồn:
sưu tầm





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét