CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 15.
2/ NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
 
"Sống
là động
mà không xảo
động.
Sống là thương lòng mà chẳng vương vấn.
Sống hiên ngang danh lợi chẳng màng,
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. "
(Bảng thư pháp của TUỆ CHIẾU).
Ngày Giỗ
Tổ của
môn phái sát vào dịp
Tết Nguyên Đán. Cách cả chục
ngày, đám Đệ tử của
ông bà Bảy đã lục tục
kéo về. Người
nào người ấy tay sách nách mang đủ thứ
đồ lễ,
chất gần
kín cả một
căn phòng. Những người hàm ơn cứu
mạng của
ông, bà Bảy từ khắp
các tỉnh thành cũng kéo về đông như hội
. Lúc này, tất cả các cây cột trong nhà đều  giăng kín những tấm
võng dù, la liệt. Người ta phải chôn ngoài vườn thêm những cây cột để
thêm mắc võng mà vẫn còn thiếu. Những
người đến sau phải sang đậu ở
những nhà kế bên. Gần Tết,
lại đang vào mùa khô, Tây Ninh nắng chang chang như đổ
lửa. Từng
nhánh điều nặng
trìu những chùm quả đỏ
chót lúc líu trên cành đung đưa
theo những cơn
gió. Người ta dựng tạm
một cái lán  bằng khung tre và những tấm
lợp lên tăng  để làm chỗ tiếp
khách. Chỉ những dịp
như thế
này, người ta mới có thể đánh giá hết những
công đức mà ông, bà Bảy hành thiện trong suốt năm qua những. Đang lui cui kê những chiếc bàn tròn trong lan để làm chỗ đãi tiệc, bỗng
nghe thày Bảy cao giọng: Hòa ơi, lên đây Thày biểu.
Tôi ngơ ngác một
chút mới biết
là thày Bảy gọi mình. Nhớ lại
ngày đầu nhập
môn, thày Bảy đặt cho tôi cái tên theo họ của
Thầy là: Lê Văn Hòa. Thầy bảo
tôi: Tao thấy ánh mắt của
mày còn nhiều sát Khí lắm, mày cũng gặp gì cũng hung hăng, nông nổi là dễ thất
bại  lắm con ơi. Ta đặt
tên cho con Hòa là luôn muốn
con lấy hòa  làm đầu . Phải biết
Nhịn con ạ. Tôi nghe Thầy kêu vội chạy
lên trên nhà, thấy
ông, bà Bảy và Thầy Chàm, cùng trưởng Tràng vị đang ngồi bàn tính. Thì ra họ đang lên kế hoạch
mời khách trong dịp Giỗ
Tổ. Thấy
tôi lên, Thầy Bảy bảo
tôi cùng ông và vị
trưởng Tràng đi mời các vị trưởng
môn trong  vùng nhân ngày Giỗ
Tổ của
ông.
Chúng tôi cùng lên chiếc
Zeep lùn tôi chạy
từ Công ty sang từ sớm.
Ông Bảy và vị trưởng
Tràng xúng xính trong bộ
quần áo vạt hò mới cáo, cứ thấyngường ngượng thế nào. Bình thường, tôi chỉ thấy
ông bận có cái quần xà lớn màu nâu muôn thửa, nay thấy ông bận đồ
lớn tôi chợt bật
cười. Ông Bảy cũng như hiểu
ý tôi, chỉ lầm bấm
trong miệng: Thằng mắc
dịch, cười
chi mà cười. Thế là tất
cả cùng phá lên cười như nắc
nẻ.
Nơi chúng tôi ghé đầu
tiên là Miếu thờ Quan lớn Trà Vong tại Suối
Vàng, ngay chân của
Núi Bà Tây Ninh. Tại
Tây Ninh có nhiều
nơi lập
Miếu thờ
Quan lớn Trà Vong. Tham khảo các sách viết về
Tây Ninh thấy viết như
sau: Ngôi mộ ông Huỳnh Công Giản (tức
Quan Lớn Trà Vong) được nhân dân chôn cất tại
ấp Trà Hiệp xã Trà Vong, Tân Biên. Đền thờ
ông được nhân dân xây dựng ở
nhiều nơi
như: Tân Phong, Trà Vong (Tân Biên), Cầy Xiêng, Đồng Khởi
(Châu Thành), Thái Vĩnh Đông, Phường
I (Thị xã), Thạnh Tân (Hoà Thành) . Huỳnh Công Giản là một vị
võ quan có tài, quê ở
làng Nhật Tảo.
Năm 1749 (Kỷ Tỵ), Triều đình Huế cử
ba anh em nhà họ
Huỳnh: Huỳnh Công Giản,
Huỳnh Công Thắng, và Huỳnh
Công Nghệ là các quan đại thần
vào trấn nhậm
vùng đất Tây Ninh. Ba ông cùng với đội
binh mã của Triều đình thực hiện
việc di dân khai hoang lập ấp
và giữ gìn an ninh ở vùng đất biên cương.
Vùng Tây Ninh vào thế kỉ
17 còn hoang vu, người
Miên đến đây đầu tiên, sau người Việt đến.
Cao Miên lúc đó còn là thuộc
địa của
Xiêm, họ không  thích chung với người
Việt. Do đó, họ nổi
dậy đánh nhau với người
Việt nhiều
lần giữa
thế kỉ
17. Lúc đó, đền đài của vua Miên là Nạc Ông Chân đóng tại xã Thanh Điền (huyện Châu Thành), gần ngọn
Rạch Tây Ninh ngày nay, dân chúng địa phương
quen gọi là Phủ Cũ. Sau nhiều lần
đánh, quân Miên đã bị
đẩy lui.
Huỳnh Công Giản đã cùng em
trai là Huỳnh Công Nghệ
lập căn cứ kháng Miên, đóng đồn tại
Bến Thứ,
Rạch gần
ngọn Sóc Om (xã Hảo Đước,
huyện Châu Thành). Ông chiếm một
cánh đồng rộng gọi là đồn Trà Vong (xã Thái Bình). Bờ thành vô cùng kiên cố. Bấy
giờ, những
trận đụng
độ giữa
người Việt và Miên diễn ra kéo dài suốt mấy
mươi năm với vũ khí rất thô sơ: guom, đao, giáo Mác, cung tên.
Một buổi
sáng, quân Miên dùng chiến
thuật biển
người ồ tấn
công tại đồn
Trà Vọng. Bị
tấn công bốn mặt
nhưng quân của
ông Huỳnh Công Giản
cũng kịp thời
phản công mãnh liệt. Tuy nhiên, vì quân địch quá đông, ông đã cho quân liên lạc với
Huỳnh Công Nghệ kêu viện binh. Huỳnh Công Giản tướng
tả xung hữu đột
dưới vòng vây của kẻ
địch. Khi ông đã thấm mệt,
nhìn lại thì số quân sĩ hi sinh quá nhiều, trong lúc viện binh chưa đến
kịp. Ông chiến vung guom tử cùng quân Miên đến lúc kiệt sức
rồi quay guom tự cắt
đầu tuần
tiết.
Đền ở Suối Vàng (huyện Hòa Thành)
Đây là khu lòng chảo
nằm sát chân núi Bà Đen, tương truyền đây là nơi tập
luyện tập
binh mã ngày xưa của Quan Lớn Trà Vong.
Đền xây dựng khá lâu, đến năm 1995 để mở
rộng lộ
giới tỉnh
lộ 4, nhân dân địa phương
đã xây dựng ngôi đền mới
khang trang tường gạch, cột
bê tông, mái lợp ngói, kiến trúc theo hình chữ tam. Đây là ngôi đền ông lớn Trà Vong lớn nhất
hiện nay so với các đền hiện
hữu thờ
ông lớn Trà Vong trên đất Tây Ninh.
Ngoài ra còn có các đền
thờ ông Huỳnh Công Nghệ và ông Huỳnh Công Thắng ở
những nơi
khác.
Tại Vàm Bảo, Bến
Thứ Rạch
Vịnh xã Hảo Đước,
huyện Châu Thành có mộ và đền
thờ ông Huỳnh Công Nghệ nằm
cạnh khu dân cư thưa
thớt hiện
đang xuống cấp
nặng. Tại
thành Bảo Quang Hoá, xã Cẩm Giang, Gò Dầu có ngôi đền thờ
ông Huỳnh Công Thắng.
Ngôi đền kiến
trúc hai lớp hình chữ nhị,
tường gạch, mái lợp ngói có diện tích 8 m × 16 m. Trong đền thờ
bài vị và tượng
Huỳnh Công Thắng.
Trên vùng đất phía Tây Bắc Tây Ninh nhân dân xây dựng nhiều đền
thờ Quan Lớn Trà Vong. Tuy nhiên, do chiến tranh kéo dài nên nhiều ngôi đền bị
tàn phá mà nhân dân chưa
có điều kiện
xây dựng lại.
Hàng năm vào các ngày 16 và 17 tháng 3 âm lịch
tại các đền nhân dân địa phương
tổ chức
lễ cúng tưởng nhớ đến
ông lớn Trà Vong rất trang trọng. Nhiều nơi
tổ chức
cả hát bội và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian phong phú mang đậm đà bản sắc
văn hoá dân tộc.
Theo Thầy Bảy
cho biết, tại
những nơi
có đền
thờ Quan lớn Trà Vong, các cao thủ của
các môn phái hay về
tụ tập
rất đông, vừa là lấy chốn
nương thân, vừa là nơi họ
tu luyện và truyền Pháp cho nhau. Chúng tôi đến nơi
đã thấy rất
nhiều người
đang hành lễ tại đây. Thay bảy biểu
chúng tôi mang đồ
lễ vào ban thờ trên bày và quỳ tại hàng cuối để
hành lễ cùng mọi người.
Mãi hơn một
tiếng sau, việc hành lễ mới
chấm dứt,
tất cả
ra ngoài hàng ba ngồi
uống nước.
Thấy cái mặt tôi lạ hoặc,
mọi người
nhao nhao hỏi ông Bảy. Bây giờ ông Thày Bảy mới
điềm nhiên bảo: Cái thằng đó là thằng con nuôi của bà nhà tôi. Chỉ mới
nghe đến đó, tôi thấy mấy
cậu thanh niên trạc tuổi
tôi nhấm nháy nhau và một cậu
bưng ra cho tôi một tô chè nấu bằng
mè đen. Đang vừa đói vừa khát, thấy tô chè thơm phức,
tôi diềm nhiên làm một cái đánh xoạt hết
nhẵn. Chỉ
sau khi tất cả tô chè vào tới dạ
dày tôi mới chú ý cái nhìn
cau có của Thầy
Bảy và cái ngón tay ngoắc ngoắc
của anh Trưởng tràng. Không hiểu mọi
người muốn nói gì, vả lại
không tiện hỏi
trong đám đông, tôi ra xe, bật
ghế nằm
chờ. Chỉ
độ 15 phút sau, tôi bất thần
thấy người
choáng váng và cha mẹ
ơi,  bụng
thì quặn và sôi như một
cái lẩu. Vớ
một tờ
báo trên xe, tôi phóng như
bay vào một bụi
cây gần đó và gần như
tích tắc, xổ
 gần như
hết tất
cả  những chất
lỏng đựng
trong người. Miệng nôn, chôn tháo, tôi gần như
muốn ngất
đi xíu. Cố lê về đến
xe, tôi nằm thiếp đi giữa trời
nắng chang chang. Khi đầu óc bắt đầu
hoạt động
lại, tôi mới hiểu
thái độ của
Thầy Bảy
và anh Trưởng trang. Thì
ra, nghe tôi là con nuôi của
bà Bảy, một
cao thủ chuyên về hạ
độc, mọi
người muốn thử
tài tôi. Nhớ lại những
gì bà Bảy đã dạy, tôi đoán chắc họ
cho tôi ăn chè có pha nước
của lá cây Dầu bóng. Dầu bóng loại cây này mà ăn phải một
chút nước vắt ra từ lá của
nó sẽ bị
Tào Tháo đuổi chạy không kịp. Lục
tìm trong chiếc ba lô để trên xe, tôi lấy ra hai cái lọ nhỏ
xíu mà bà Bảy đưa cho từ trước
để phòng hờ. Một
chiếc màu xanh lá cây, tôi trút cả vào miệng. Khi chất lỏng
vừa qua khỏi cổ,
một làn hơi ấm
từ Huyệt
Đan Điền bốc
lên, nóng và rực , ngay lập tức
cơn đau biến
mất. Ngồi
điều Khí một lúc, thấy vòng Châu Thiên vẫn hoạt
động chơn
chu , tôi mới thở
đánh phào một cái. Máy vẫn chạy
tốt. Tuy nhiên, cái điều mà mấy cậu
thanh niên gây ra cho tôi thì không thể
tha thứ được,
mặc dù biết họ
chỉ đùa và muốn thử
tài học trò của bà Bảy theo thói quen trên giang hồ. Lại
khạp nước
mưa múc một
chén đầy nước,
bưng ra bộ ván có mấy cậu
thanh niên ban  nãy đang ngồi
uống nước,
tôi cố làm ra vẻ từ
tốn và nói: Tôi mới nhập
môn, chưa có học
hành chi cả. Cảm ơn
các anh đã mời tôi chén chè vừa rồi.
Nay lấy nước
thay rượu, xin các anh uống với
một chén nước gọi là làm quen.
Từ lúc nãy , tôi đã lấy móng ngón tay út nhúng vào lọ chất
lỏng màu  vàng trong vắt mà bà Bảy đã đưa. Lúc để
chén nước trước mặt mấy
cậu thanh niên, tôi dùng móng tay
ngón út  vạch
một đường
ngang qua bát nước
đó. Thật kỳ lạ, chén nước trong vắt là vậy, bây giờ một
bên đỏ như
máu, một bên vàng như mật
ong. Tôi nâng chén nước
mời lại
câu  thanh niên độ
nãy đưa chén chè cho tôi. Lúc này mặt
cậu ta tái dại và cúi xuống luống
cuống. Các cậu khác nhìn vào chén nước hai màu  người nào người đó sững sờ.
Lúc này, đám người
lớn mới
để ý và lần lượt
kéo sang xem chúng tôi tỷ
thí. Tôi bảo cậu thanh niên, tôi mời cậu
uống trước,
cậu muốn
uống nửa
nào cũng được, còn lại bi nhiêu tôi xin cạn chén. Sở dĩ tôi dám làm vậy là tôi đã có uống thuốc giải
trước mà bà Bảy đã cho. Lúc này thấy phần
thắng đã nghiêng về mình tôi hết sức
khoan khoái. Đám người
già bên ngoài xì sầm
về sự
tuyệt độc
ngón nghề của
bà Bảy. Mọi
người thấy vậy
lo lắng ra mặt. Bình thường, nếu chỉ
là chơi đùa thì không nói làm gì, nhưng
ở đây là sự hơn
thua, cao thấp giữa các môn phái nên tất cả
đều phải
cẩn trọng.
Danh dự của
môn phái là cao hơn
hết, thậm
chí có phải chết, người
ta cũng phải bảo vệ
danh dự của
môn phái mình. Tuổi
trẻ, ngông cuồng, vô tình tôi đã đẩy các môn phái khác vào thế phải
mất mặt.
Từ nãy, Thầy Bảy
vẫn giả
tảng ngồi
uống nước,
bây giờ vội
đến bên tôi vờ giả
lả: Cái thằng nhóc này, bày đặt làm cái trò ảo thuật
làm chi cho anh em sợ.
Nói rồi, ông búng tiếng đánh một tách từ hai ngón tay, cái chén nước bể ra làm đôi, chất lỏng
trong chén chảy ra ngoài đất bốc
lên một làn khói xanh lè. Tôi nhìn thấy rất
rõ những cái rùng mình của mọi
người. Thật ra, động tác của Thầy
Bảy đơn
giản nhưng
một phát tên bắn trúng hai cái đích. Thứ nhất
là tránh cho các môn phái khác khỏi
cái thế mất
mặt bầu
cua, thứ hai là nâng cao uy tín của bà Bảy. Một
thằng nhóc mới nhập
môn như tôi đã thế,
nếu gặp
phải bà Bảy thì còn đến nước
nào .... Tất cả gần
như thở
phào nhẹ nhõm và tôi thấy trong ánh mắt mọi
người một sự
trọng thị
thấy rõ. Mọi người
lại quay về chỗ
của mình. Tôi ra ngoài xe nằm, kệ
để cho thấy Bảy
và  anh Trưởng
tràng ở trong mời mọi
người đến ăn Giỗ Tổ.
Ngồi ngoài xe, tôi lâng lâng như vừa
mới uống
rượu. Lần đầu
ra quân toàn thắng,
tôi đã tự khẳng
định mình được trước cả đám quần hùng. Bây giờ mỗi
khi ngồi nhớ
lại, tôi thấy thật
mắc cỡ
cho cái tính hiếu
thắng của
mình ngày ấy.
Xem tiếp BÀI 16.dienbatn
_______________
Nguồn: sưu tầm


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét