CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 24.
NHỮNG
NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ
phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN
MÔN. Đó là những tháng ngày vô
cùng vất vả,
trải nghiêm đủ Hỉ-
Nộ- Ái - Ố của
dienbatn . Cũng đã qua từ
lâu rồi , xin kể lại
để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ
và Đời sống
.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm
thành Vĩnh Long. Sau đó, tiến
lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc
Tổng đốc
Phan Khắc Thận
phải đầu
hàng. Tỉnh An Giang mất vào tay Pháp vào ngày 22 tháng 6
năm 1867. Trần Văn Thành
không hàng Pháp mà mang quân qua Rạch
Giá, hỗ trợ
kháng chiến quân của Nguyễn Trung Trực.
Trần Văn Thành sinh năm 1920 ở ấp
Bình Phú, làng Bình Thạnh
Đông, tổng An Lương, quận Châu Phú Hạ, tỉnh
Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Năm 1840, ông gia nhập quân đội nhà Nguyễn được
cử làm suất đội
trong chiến dịch giải
giáp Nặc Ông Đôn (em vua Cao Miên, khởi quân chống lại
Việt Nam). Năm 1845, ông được thăng làm Chánh quản cơ,
coi 500 quân,
đóng quân ở Châu Đốc để
giữ gìn biên giới phía Tây Nam.
Theo (https://vi.wikipedia.org).
“Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông ở ấp
Bình Phú (Cồn Nhỏ), làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, huyện Đông Xuyên, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc ấp
Bình Thành, xã Phú Bình, huyện
Châu Phú, tỉnh An Giang).
Ông trưởng thành và hoạt động
dưới triều đại
Thiệu Trị
và Tự Đức,
từ khoảng
năm 1841 đến 1873.Năm 1840,
Trần Văn Thành gia nhập quân đội nhà Nguyễn giữa
lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên, nhờ có Xiêm La giúp sức, đã khởi quân chống lại
cuộc bảo
hộ của
Việt Nam.
Nhờ có sức
khỏe, giỏi
võ nghệ, khá thông thạo chữ
nghĩa , nên ông được
cử làm suất đội
(chỉ huy khoảng 50 lính), từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia).
Dưới thời Thiệu
Trị, ông từng đem quân đánh dẹp phe nổi dậy
ở Láng Cháy (Tri Tôn) . Năm 1845,
sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng làm Chánh Quản Cơ,
coi 500 quân,
đóng quân ở Châu Đốc để
giữ gìn biên giới phía Tây Nam .
Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục nhà Nguyễn. Cuối
năm Đinh Mùi (1847), xét thấy
tình hình biên giới
Tây Nam đã ổn định, thực hiện
chính sách "ngụ
binh ư nông", triều đình cho giải ngũ một số
binh sĩ, trong đó có cơ
biền của
Trần Văn Thành. Trước khi về lại
quê nhà, ông được ban thưởng nhiều phẩm
vật cùng một tờ
chiếu khen là "Quản cơ
tinh binh".Giải
ngũ, Trần Văn Thành cùng gia đình đến cư
ngụ tại
khu vực chùa Huê Viên (còn gọi là chùa Vườn Bông, nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân).
Năm 1849, Trần Văn Thành gia
nhập giáo phái Bửu Sơn
Kỳ Hương do Đoàn Minh Huyên (Phật Thầy
Tây An) sáng lập năm 1849.
Từ 1851, khi Đoàn Minh Huyên bị bắt
buộc phải
đến tu tại chùa Tây An (Châu Đốc), nghe lời thầy,
ông mang vợ con rời Cồn
Nhỏ (Bình Thạnh Đông) đến vùng Nhà Bàng sau này, rồi đến
Láng Linh (Châu Phú) lập
trại ruộng
để lo việc khẩn
hoang .
Tháng 2 năm 1861, Đại
đồn Chí Hòa thất thủ,
sau đó quân Pháp lần
lượt đánh chiếm ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ. Vua Tự
Đức liền
ra lời kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp
tác chống ngăn quân xâm lược. Hưởng ứng lệnh
vua, Trần Văn Thành trở lại
đội ngũ.
Sau khi đi Pháp chuộc
lại ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ thất bại, năm 1865, Phan Thanh Giản được
cử làm Kinh lược sứ ba tỉnh
miền Tây Nam Kỳ. Do sức ép của Pháp, triều đình lệnh cho ông Giản phải
lùng bắt Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên hộ Dương),
và ông Giản đã phái Trần Văn Thành thực hiện
nhiệm vụ
này, nhưng ông chỉ
làm cho lấy có .
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm
thành Vĩnh Long. Sau đó, một
đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu,
tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc
Tổng đốc
Phan Khắc Thận
phải đầu
hàng, tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867.
Để cứu
nguy nước nhà, Trần Văn Thành tự tổ
chức dân binh đắp cản
ở quê nhà (Cồn Nhỏ)
để ngăn quân Pháp , đồng thời
mang quân qua phía Rạch
Giá, hỗ trợ
cuộc khởi
nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh Trung Trực đánh chiếm được
đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức
phản công. Lập tức,
Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng
bào Núi Sập tiếp tay) đắp cản
ở Ba Bần,
Trà Kên (nay đều thuộc huyện
Thoại Sơn)
để
ngăn cản tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh
lỵ Rạch
Giá .
Ngoài ra, ông còn can dự
vào việc giết
viên Chủ tỉnh
Vĩnh Long là Salicetti ở
Vũng Liêm .
Cuộc cản
phá thất bại,
Nguyễn Trung Trực bị
đánh thua rút quân ra Hòn Chông (nay thuộc
Kiên Lương), còn Trần Văn Thành thì dẫn lực
lượng của mình vào Láng Linh dựng trại,
khẩn hoang làm ruộng, luyện quân và rèn đúc vũ khí...để chuẩn
bị làm cuộc đánh đuổi ngoại
xâm .
Láng Linh một cánh đồng rộng
trũng phèn rộng bao la, thời nhà Nguyễn, đất
này thuộc huyện
Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (nay nằm trên địa bàn các xã Thạnh Mỹ
Tây, Đào Hữu Cảnh, Bình Phú (nay đều thuộc
huyện Châu Phú tỉnh An Giang). Xưa kia, nơi đây có nhiều
đầm lầy,
đế sậy
và vô số cây thưa (vì thế
mà thành tên cuộc
khởi nghĩa) , lại ít có kênh rạch thông vào...

Cây trát thưa hay cát
thưa
(dân
gian gọi
tắt là "thưa") là
một loại cây ưa mọc ở vùng đất thấp, chịu được mùa nước nổi, cội to (khi lớn), lá nhỏ mà dài (xem ảnh). Ca dao địa phương có
câu:
"Bãi
bồi mọc những cát (hay trát) thưa/ Thương em đi
sớm về trưa một mình". Theo Nguyễn Hữu Hiệp và Liêm Châu, tên cuộc khởi nghĩa viết là Bãi Thưa (theo nghĩa
bãi
đất mọc nhiều cây thưa) mới đúng. Do cách phát âm
của người nông thôn miền Nam, mà tên Bãi Thưa lần hồi thành ra Bảy Thưa (theo Kỷ yếu, tr. 79 và 92). Hiện nay ở Láng Linh còn rất ít loại cây này. Cây cát (hay
trát) thưa,
chỉ
còn lại
vài bụi
nhỏ
tại Dinh Sơn Trung.
Theo lời
kể của
nhân dân và tư liệu cũ thì căn cứ chính của khởi
nghĩa Bảy Thưa
là Hưng Trung doanh (nay thuộc ấp
Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh,
huyện Châu Phú). Xung quanh có các đồn làm tuyến ngăn cản đối
phương, như: đồn
Cái Môn, đồn Lương (đều
thuộc Thạnh
Mỹ Tây), đồn Giồng
Nghệ (Vĩnh Hanh, (Châu Thành), trạm canh Ông Tà (Tà Đảnh, Tri Tôn), đồn Hờ
ở vàm rạch Cái Dầu (Châu Phú), v.v... . Mỗi đồn
đều được
trang bị súng thần công, súng điểu thương,
hỏa hổ,...
với khoảng
150 nghĩa quân phòng thủ.
Trần Văn Thành phất cờ
chống Pháp vào khoảng tháng 8 năm 1867, và lấy tên Binh Gia Nghị đặt
cho đội quân của mình.
Theo tờ trình của Pháp năm 1870, thì lúc bấy giờ
lực lượng
của Trần
Văn Thành có khoảng
1.200 nghĩa quân, bao gồm
một số
quân triều và nghĩa dân (trong đó phần đông là tín đồ Bửu
Sơn Kỳ Hương). Để
củng cố
thêm thế lực,
Trần Văn Thành cho người đến liên hệ với
Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp
ở Campuchia, nhưng vì ông này cũng đang gặp
khó khăn nên việc
liên kết không mấy hiệu
quả. Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm La và Cao
Miên để mua súng đạn, nhưng
không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào việc Nam Kỳ e mất lòng Pháp .
Cuối năm 1868, các phong trào kháng
Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần hết,
lực lượng
Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị
Pháp truy nã, treo giải
thưởng cao .
Năm 1871, một cộng sự
của Pháp là Trần Bá Lộc thử
hành quân vào Bảy
Thưa, nhưng
chẳng thâu được kết quả
do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh
thoảng bị
phục kích.
Sang năm 1872, nhờ
lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được, thực dân quyết định
mở cuộc
càn quét lớn vào Bảy Thưa.
Tuy nhiên mãi cho đến
năm sau, họ mới phát lệnh hành quân.
Bắt đầu
từ tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp cho quân đánh phá đồn Hờ
ở rạch
Cái Dầu (thuộc Châu Phú), và uy hiếp đồn
Nghệ (thuộc
xã Vĩnh Hanh, huyện
Châu Thành, An Giang) rồi
kéo dần vào rừng. Họ
nã đại bác vào phía trước và cho dân dọn đường
phía sau. Qua 5 ngày chiến
đấu, quân Bảy Thưa
lui dần. Quân Pháp không tiến mau được vì ngột nắng
và sợ đỉa.
Ngày 19 tháng 3, hải
quân Pháp từ Châu Đốc tiến
vào đánh đồn Cái Môn (nay
thuộc xã Thạnh Mỹ
Tây, huyện Châu Phú). Tuy có hào sâu nhưng vì súng của
nghĩa quân bắn không được xa, phát nổ phát không, nên chẳng bao lâu quân Pháp tràn vào được trong đồn. Cùng ngày ấy, tàu chiến Pháp đâu tại vàm rạch Mặc
Cần Dưng
(nay thuộc Châu Thành, An Giang), ngoài sông
Hậu, rồi
cho quân dùng xuồng
nhỏ vào ngọn rạch
Mặc Cần
Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang) để tiến
tới ngọn
Hang Tra là nơi Trần Văn Thành đang chỉ huy chiến cuộc
.
Biết mình đang bị bao vây, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu,
nhưng Trần
Văn Thành và nghĩa quân vẫn
cương quyết đối
phó.
Theo Sơn Nam, khoảng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873 (21
tháng 2 năm Quý Dậu),
quân Pháp bắt đầu xung phong đánh chiếm Hưng
Trung doanh. Báo
Le Courrier de Saigon ra ngày
5 tháng 4 năm 1873 tường thuật:
Tại Hưng
Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những
tấm ván và những bao gạo chồng
lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu.
Nghĩa quân trong các chiến
lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ
cho ông bắn"...
Nhà văn Sơn Nam kể:
Ông Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những
bao gạo chồng
chất. Ông thách thức bọn
Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa
thậm tệ.
Đồng thời
ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa
bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng
lọn tóc nhỏ của
mình mà phân phát cho các tín đồ...Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Thành mặc áo màu đỏ sậm,
đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh,
bên cạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng...
Trước hỏa lực
mạnh mẽ
của đối
phương, dù cố gắng
chống trả
nhưng chỉ
vài giờ sau thì quân Bảy Thưa
cũng bị đánh tan. Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này, bên nghĩa quân có 10 người chết, 5 người bị thương,
15 người bị bắt
sống. Ngoài ra, họ còn bị đối
phương chiếm đoạt
16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo
cùng ghe xuồng, một số
giấy tờ
cho thấy ông Thành từng ở
Rạch Giá với Nguyễn Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh
Vĩnh Long) ở Vũng Liêm.
Xong trận, quân Pháp nổi lửa
đốt tất
cả dinh trại, phá hủy hết
các lò đúc vũ khí, rồi
mang xác ông Thành và Đội
Văn (Pháp ghi là Vang, giữ
hậu tập,
tử trận
trong trận Hưng
Trung) về chưng
bày tại chợ
Cái Dầu (Châu Phú) để thị
uy, để ngăn chận những
tin đồn cho rằng ông còn sống, chỉ tạm
thời đi lánh mặt và sẽ tiếp
tục kháng chiến . Theo Từ điển
nhân vật lịch
sử Việt
Nam thì ông không tử
trận. Sách viết: "sau khi bản doanh Hưng Trung bị tàn phá, thất bại
nặng, ông rút lui vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 âm lịch năm 1873".
Về cái chết của
ông, đến nay vẫn chưa
được
làm rõ.
Nhà văn Sơn Nam viết về
Trần Văn Thành và cuộc khởi
nghĩa của ông như sau:
Trần Văn Thành từng tham gia những trận
chống quân xâm lược Xiêm, đời Thiệu
Trị. Qua đời Tự
Đức, thấy
sự áp bức
của vua quan, ông trở thành tín đồ của
Đoàn Minh Huyên, bấy
lâu nổi danh với tài trị bệnh,
cải cách Phật giáo, bỏ những
nghi thức rườm
rà, nhằm huy động nông dân chống lại
phong kiến...
Với chí lớn không chút bi quan yếm thế,
ngay sau khi An Giang mất,
ông đưa nghĩa dân và nghĩa quân qua phía Rạch
Giá, tham gia cuộc
khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, và ông trở thành nhân vật mà thực dân Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng.
Sau đó, ông rút lui về
Láng Linh để khẩn hoang. Có thể nói, ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc
canh tác ở vùng trũng phèn
này. Từ năm 1871 đến đầu
năm 1873, mật khu lần hồi
thành hình...Nghĩa quân gồm
quân sĩ cựu trào, thêm khá
đông người yêu nước từ các tỉnh.
Khi đề cập
cuộc khởi
nghĩa Bảy Thưa,
nhiều sử
gia đều đánh giá cao, vì:
-Việc tổ
chức khá khoa học, với
công sự, kho lương thực; đặc
biệt là đúc súng ống tại
chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu
"ống lói".
-Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần
chúng và che mắt thực dân Pháp.
-Thủ lĩnh (Trần Văn Thành) thấy rõ tương lai dân tộc ở
hành động cụ
thể là phải chống
ngoại xâm, không thể ngồi
khoanh tay chờ núi Cấm nứt
ra "bất chiến tự
nhiên thành". Thái độ
của thủ
lĩnh và nghĩa quân là "chiến
đấu không thỏa hiệp"
Nho sĩ Cao Văn Cảo,
người cùng thời, có làm bài thơ chữ
Hán tưởng niệm ông. Vô danh dịch như
sau:
Non sông Hồng
Lạc, giặc xâm lăng
Thẳng
thắng,
Trần
công cố
sức ngăn.
Trời
đất biết cho lòng sốt sắng,
Kiếp
đời ghi mãi chí thù hằn.
Đền
thờ
tỏ dấu dân trong nước,
Thơ
vịnh nêu tình khách viết văn.
Những
đứa phản thần qua đến cửa,
Gục
đầu, run mật, cặp mày nhăn.
Năm 1909, một tu sĩ trong
giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tên là Vương Thông có viết tập
thơ Nôm thể
lục bát có tên là "Trần Quản
Cơ dữ
Gia Nghị Binh", kể về
khởi nghĩa Bảy Thưa,
trong đó có nhiều câu nói đến tinh thần "an bần, lạc
đạo", lòng quả cảm
và tiết tháo của ông, trích hai đoạn ngắn:
Thân ngài (Trần
Văn Thành) chẳng
quản
rách lành,
Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời.
Người
trung đứng
giữa
mặt trời,
Đắng
cay bao quản
vận thời chớ than.
Trích cò le át la vang,
Đậu
khoai nuôi bữa
bắp rang đỡ lòng...
Và:
An Giang có một
ông (Trần
Văn Thành) đây
Chữ
dạ ngay thầy ái quốc ưu dân.
Thà thua xuống
láng xuống
bưng,
Kéo ra đầu
giặc
lỗi chưng quân
thần...
Trần Văn Thành được tôn thờ ở
nhiều nơi,
như: Đền
thờ Quản
cơ Trần
Văn Thành, Dinh Hưng
Trung, Dinh Sơn Trung...Ngoài ra, tên ông còn dùng để
đặt tên cho trường học và đường phố trong tỉnh An Giang.”
Tháng 6 năm 1968, Nguyễn
Trung Trực đánh chiếm được
đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức
phản công. Do địch được
trang bị vũ khí vượt trội nên Nguyễn Trung Trực rút lui ra Hòn Chông, còn Trần Văn Thành thì dẫn lực
lượng của mình vào Láng Linh – Bảy Thưa
dựng trại,
khai hoang, luyện
quân và rèn đúc vũ khí chờ
thời cơ.
Đó là khoảng thời
gian hình thành môn phái võ Thất
Sơn Thần
Quyền.
Một số
Chưởng môn truyền nhân của các hệ phái đều nhắc
đến ông tổ Cử
Đa - Một nhà sư tay không đả
hổ ở
núi Thiên Cấm Sơn. Cũng có thể
đó là ông Tổ chung nhiều môn phái võ có xuất xứ
ở vùng Thất sơn.
Thời Thiệu
Trị cuối
cùng, Nguyễn Văn Đa thi đậu võ cử nên được gọi là Cử Đa.
Khi triều đình nhu nhược trước quân Pháp, ông Cử Đa thất vọng
từ quan về vùng Thất Sơn
đứng
dưới cờ kháng chiến của
nghĩa quân Trần Văn Thành (quản cơ
Trần Văn Thành) vào năm 1862. Lúc ấy nghĩa quân Trần Văn Thành trú đóng dưới chân núi Liên Hoa Sơn (căn cứ
Láng Linh – Bãi Thưa)
lập căn cứ kháng chiến lâu dài.
Láng Linh – Bãi Thưa
là hai cánh đồng
rộng nằm
liền kề,
có nhiều đầm
lầy, lau sậy và vô số cây thưa um tùm tăm tối. Căn cứ chính của Trần
Văn Thành có tên là Hưng
Trung doanh, đặt tại
trung tâm rừng Bãi Thưa (nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh,
huyện Châu Phú, An Giang).
Ông Cử Đa trở thành người huấn luyện
võ thuật cho quân kháng chiến. Trong khi quân Pháp sử dụng
vũ khí hiện đại, quân kháng chiến chỉ
có các loại đao, thương và súng tự chế.
Để trấn
an tinh thần nghĩa quân, thủ lĩnh nghĩa quân Trần Văn Thành giao cho Ngô Lợi huấn
luyện phép thuật.
Còn cụ cử
Đa trong cuốn Tà Lơn có viết
là quê tại Thuộc
Nhiêu , chống Tây bị thất
bại nên đi tu lấy hiệu
là Ngọc Thanh :
“ Hắc
y đổi
lại cà sa,
Cải
tên đặt
lại hiệu là Ngọc Thanh “.
Trong thời gian này cụ cử
Đa thường đem quân lên Vồ Thiên Tuế tập võ . Gọi là Vồ bởi
chúng là những chỏm cao nhô lên trong cùng một dãy núi, phần nhô cao lên có đỉnh bằng
phẳng . Tại núi Cấm có 5 vồ là : vồ Thiên Tuế, vồ
Ông Bướm , vồ Bà , vồ Đầu
và vồ Bò Hong . Trong đó vồ Bò Hong cao nhất ( 716 m ) và thấp nhất
là vồ Ông Bướm ( 480m ) . Gọi là vồ Thiên Tuế bởi
ở đây có rất nhiều
cây Thiên Tuế lâu năm ,
gọi là vồ Ông Bướm bởi ngày trước cuối thế
kỷ 19 có hai người Miên tên là Bướm và Vôi đến tu luyện . Gọi
là vồ Bà vì trên vồ có tượng
Bà to lớn và rất đẹp
. Tại Vồ
Bà cũng còn có một
phiến đá rất to có hình dáng giống như
một cái thuyền có sự tích về “ Chàng Nam và chiếc thuyền hóa đá “
Nhằm tạo
niềm tin, thu hút nhiều quần
chúng tham gia kháng chiến,
Ngô Lợi đem nền tảng
đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương lập một
tôn giáo mới có tên gọi là Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Những tín đồ được
Ngô Lợi phát bùa đeo nhằm… chống
đạn. Ông Ngô Lợi còn dùng sấm truyền để
tín đồ tin rằng sắp
đến ngày tận thế
(đồng khởi),
ma quỷ (quân Pháp) đã hiện ra đầy đường
và núi Cấm sắp
mở hội
“Long Hoa”.
Chỉ trong một thời
gian ngắn, người
dân khắp đồng
bằng bồng
bế gia đình kéo về vùng kháng chiến Láng Linh nườm nượp. Ngô Lợi phải
chia đất cho tín đồ cất
nhà, lập làng và tổ chức
khai hoang lập ruộng sản
xuất lấy
lương thực nuôi quân. Theo lệnh của
Quản cơ
Trần Văn Thành, ông Ngô Lợi còn bày cách cho tín đồ đóng ghe nhiều chèo phục vụ
cho chiến đấu.
Sau một thời
gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất
cờ chống
Pháp, lấy hiệu
là Binh Gia Nghị.
Nghe tin, Pháp cử
chủ tỉnh
người Việt tên Trần Bá Lộc đưa
mật thám xâm nhập căn cứ.
Năm 1873, sau khi nắm
rõ tình hình nghĩa quân, Trần
Bá Lộc dẫn
quân Pháp đánh vào Bảy
Thưa. Ông Trần
Văn Thành tử trận. Cuộc
khởi nghĩa thất bại.
Quân Pháp tàn sát, giết
hại, đốt
làng của tín đồ Tứ
Ân Hiếu Nghĩa. Ông Ngô Lợi thoát nạn, sau này quay trở về
Láng Linh tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân dưới danh nghĩa tôn giáo
chờ thời
cơ. Khi quân Pháp càn quét vào vùng căn cứ, một
trong những đệ
tử của
Bổn sư
Ngô Lợi đã dùng một chiếc
ghe nhiều mái chèo theo sông Cái ra biển đào thoát về tận
vùng núi Long Sơn
ở Bà Rịa
lập nên đạo Ông Trần.
Riêng ông Cử Đa cải trang thành một vị
sư lấy
tên là Sư Bảy,
giả điên khùng, lưu lạc
nhiều nơi
để
tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phái lánh
sang Campot,Campongtrach, đến
núi Tà Lơn tức
Bokor (Campuchia).
Đến năm 1896, ông Cử Đa mới
dám trở về
vùng núi Cấm lập am ẩn
danh. Năm 1896, khi rời
Campuchia về nước, ông Cử Đa tìm gặp Đức
Bổn sư
Ngô Lợi để
bàn chuyện tiếp
tục đánh Pháp. Nhưng vị
tu sỹ này từ chối
do chưa đến
thời cơ.
Thất chí Cử Đa về
vùng rừng Tri Tôn lập chùa Năm Căn quy ẩn.
Riêng làng An Định,
nơi được
xem là thủ phủ của
đạo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa với ngôi chùa Tam Bửu và Phi Lai do chính Ngô Lợi tạo
dựng, quân Pháp bố ráp xóa làng 5 lần nhưng
không xóa được
lực lượng
nghĩa quân này.
Sau khi Ngô Lợi bị bệnh
qua đời, những
kháng chiến quân trong đội ngũ tín đồ vẫn
tiếp tục
rèn luyện võ nghệ chờ
thời cơ
đánh Pháp. Nhưng do không còn người lãnh đạo, lực
lượng này mai một dần.
Tương truyền, ông Cử Đa là một trong số chỉ
huy của Chưởng
cơ Thành. Khi nghĩa quân bị thực
dân Pháp đàn áp, các vị
chỉ huy nghĩa quân phân tán lực lượng
vào các cánh rừng già để bào toàn lực lượng
và chờ đợi
người liên lạc của
Chưởng cơ Thành. Họ
không ngờ rằng
chủ soái đã bị giặc
bắt và tử hình. Với quân số ít ỏi,
Cử Đa không thể làm được gì ngoài việc chiêu mộ thêm nghĩa quân và ngày đêm luyện tập
võ nghệ. Do ảnh
hưởng tín ngưỡng và điều kiện
rèn quân nên hệ phái tổ sư
Cử Đa có võ pháp nghiêng về các thế tấn
công quyền pháp và binh khí. Về võ đạo,
hệ phái tôn vinh tinh thần dân tộc, chống
ngoại xâm và tuyệt đối
phục tùng mệnh lệnh
sư phụ
(chỉ huy) bằng lời
thề độc
khi nhập môn. Về võ thuyết, hệ
phái này lấy niềm tin từ “cõi âm”, vì vậy, ngoài những bài tập rèn luyện về
thể chất,
võ sinh còn phải luyện bùa, phép, ngải, chú. Do sống trong vùng rừng thiên nước độc, không có giấy tờ
ghi chép nên các võ sinh chỉ
học bằng
cách truyền khẩu. Sau này, các đệ tử
(Nghĩa quân) của tổ sư
Cử Đa tiếp tục
đi khắp nơi
chiêu mộ nghĩa quân, chiêu mộ đến
đâu huấn luyện
võ thuật đến
đó. Vì lưu trữ
kiến thức
võ học bằng
trí nhớ nên chuyện tam sao thất bồn
là lẽ đương
nhiên. Sau nhiều thế
hệ nối
tiếp, dần
dà, Thất Sơn
võ phái biến thành nhiều chi phái khác nhau. Có nhiều chi Thất Sơn
nhưng hầu
hết đều
không nhận ra bài quyền nào của nhau. Thậm chí có chi phái hoàn toàn không
luyện đòn thế mà chỉ chú tâm vào huyền thuật,
gọi là chi phái “thần quyền”.
Khoảng thập
niên 70 của thế kỷ
trước, nhiều người
đã cố công sưu tầm,
tập hợp
các tinh hoa của tổ sư
Cử Đa nhưng chưa
thành công đã giải tán do chiến tranh.
Phái Thất sơn
Thần quyền
là một môn phái riêng, không hẳn là Trà Kha , nhưng tiếp
thu rất nhiều
những kỹ
thuật căn bản và khẩu quyết
của phái Trà Kha. Các thày ngày xưa đi học
và nghiên cứu theo các hệ phái Nam tông thường kết hợp
và vận dụng
rất tài tình, sáng tạo các môn phái khác vào môn phái của mình. Chỉ riêng phái Thất sơn
thần quyền
cũng chia ra rất nhiều nhánh nhỏ với
nhiều sáng tạo và kết quả
là có nhiều chi nhánh khác
nhau trong cùng một
phái Thất sơn
Thần quyền.
Thất Sơn
Thần Quyền
là một môn phái cận chiến
thực dụng,
chỉ hữu
ích trong chiến đấu thuở
gươm đao xưa. Người
võ sinh có những phương pháp luyện tập
dị biệt.
Vì bài quyền không có lời thiệu
nên bị tam sao thất bản.
Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo
sự tự
tin, bình tĩnh. Trong chiến
đấu, sự
tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi
.
Theo dõi tiếp
bài 25. dienbatn.
_______________
Nguồn:
sưu tầm



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét