CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 29.
NHỮNG
NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ
phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN
MÔN. Đó là những tháng ngày vô
cùng vất vả,
trải nghiêm đủ Hỉ-
Nộ- Ái - Ố của
dienbatn . Cũng đã qua từ
lâu rồi , xin kể lại
để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ
và Đời sống
.
Giỗ
Tổ phái TSTQ rằm tháng chạp Ất Mùi.
Tư
liệu thứ
3.
Một
huyền thoại
về môn phái võ Thất Sơn
Thần Quyền
.
Vào đầu
những năm 80 của thế
kỷ trước,
làng võ Việt xôn xao bởi sự
xuất hiện
của một
phái võ kỳ lạ, gọi là "võ bùa" hay
"thần quyền".
Người theo môn võ ấy không cần luyện
tập quyền
cước mà chỉ cần
thổi hương,
uống bùa, gọi thần
chú là có sức mạnh muôn người khôn địch... Bởi cách thức có phần thần
bí đó mà nhiều môn phái khác
đã tìm các lò dạy
võ bùa để tìm hiểu thực
hư, phân tài cao thấp.
Sự "truy sát" ấy, cùng nhiều lý do khác nữa nên chỉ ít thời gian sau, võ bùa phải lui vào ẩn dật.
Gần đây, trước sự nở
rộ trở
lại của
phong trào học võ, lại có lời đồn
võ bùa đang "tái xuất
giang hồ". Chúng tôi đã đi tìm hiểu thực
hư xung quanh môn võ này.
Cao nhân ẩn tích
Sau màn ra mắt vào những năm 80 của thế
kỷ trước,
võ bùa bỗng dưng
mất hút một cách khó hiểu trên "chốn giang hồ". Không ai biết đệ
tử của
võ bùa ở đâu, hiện đang sống như
thế nào, còn lao tâm khổ tứ
tập luyện
hay không?
Gần đây, một lần
lang thang trên mạng,
tôi tình cờ đọc được
thông tin của một môn sinh "chánh phái"
nói rằng, trước đây có hai cao thủ phái Thất Sơn
đem võ bùa về dạy
ở Hà Nội
và chính họ là những sư
phụ đầu
tiên của môn phái ở đất
Kinh kỳ. Thông tin trên mơ
hồ, chỉ
nói người thứ nhất
tên Thành, làng võ vẫn
gọi là Thành "vuông", người thứ hai tên là Chín, giang hồ gọi
là Chín "cụt".
Liên hệ với
một số
cao thủ võ lâm ngoài Bắc thì được biết, Thành "vuông" tên đầy đủ
là Nguyễn Văn Thành, từng sống
ở khu vực Ô Chợ Dừa
(Hà Nội), giờ đã qua Nga lập nghiệp. Người
thứ hai là Chín "cụt", tên đầy đủ
là Ngô Xuân Chín, là thương
binh, hiện không biết phiêu dạt phương
nào.
Thông tin trên làm tôi nhớ lại
lần trò chuyện với
võ sư Chu Há, Chủ nhiệm
võ đường Hồng Gia. Võ sư Há cho biết,
thuở trước
Chín "cụt" có tham
gia một số
phong trào thể thao của người
khuyết tật
và ngay từ buổi đầu
tiên ấy, Chín cùng đệ tử
đã từng dùng võ bùa để giành huy chương vàng tại một
hội khỏe
năm 1986.
Nhờ manh mối này, tôi vội tìm đến ông Vũ Thế Phiệt,
Tổng Thư
ký Hiệp hội
Thể thao người khuyết tật
Việt Nam. Từ số
điện thoại
ông Phiệt cho, tôi đã tìm được "cao nhân" ẩn tích bấy lâu nay – ông Chín.
Phận duyên tiền định
Vợ chồng
ông Xuân Chín hiện
đang sống ở
một khu đô thị yên ả
trên đường Lạc Long Quân (Hà Nội). Trò chuyện, Xuân Chín bảo, Thất
Sơn Thần
Quyền với
ông như có duyên trời
định.
Thời trai trẻ, Chín là lính trinh sát đóng quân ở tỉnh
biên giới Cao Bằng. Khi còn ở quê nhà, bởi hiếu
động nên Chín từng theo đám trai làng lăn lộn học
quyền cước
của mấy
võ sư vườn,
cũng lận lưng
dăm ba miếng phòng thân. Bởi thế,
khi hay tin trong trung đoàn có một
đồng đội
thường diễu quyền,
phóng cước sau khi xong xuôi việc nhà binh, Chín muốn tìm đến xem "mặt mũi" thế nào và nhân thể thử
tài luôn để phân cao thấp.
Sau nhiều lần
hò hẹn, "thằng cha" đó cũng nhận lời
thách đấu. Thế
nhưng sau 2 lần "tỉ thí", Chín đều thua không kịp vuốt
mặt. Chín đấm, đá cật lực
mà cứ như
đánh vào bị bông, đối thủ
chẳng hề
đổi thay sắc mặt.
Đánh nhiều đuối
sức, chùn tay, nên đành phải xin thua.
Từ sau trận quyết
đấu đó, hai người trở thành bạn. Lúc này Chín mới biết
người kia theo học Thần
Quyền của
phái Thất Sơn,
từ một
sư phụ
ở quê nhà, xã Văn Khúc, huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ. Những
câu chuyện mà người bạn kể
về môn phái lạ lùng đã khiến Chín mê mệt. Anh ước ao có ngày được về quê bạn bái vị sư
phụ ấy
làm thầy.
Và rồi
cái ngày anh mong mỏi
ấy cũng đến. Được
sự giới
thiệu, ngay đêm hôm ấy, anh đã được diện kiến
kỳ nhân. Người ấy là danh sư Nguyễn
Văn Lộc, một
nông dân chân chất,
cũng chỉ hơn
anh cỡ trên chục tuổi.
Thế
nhưng hôm ấy,
ý nguyện, mơ
ước của anh đã không thành. Dù đã cố nài nỉ hết
nước hết cái nhưng vị
danh sư ấy
vẫn không chịu thu nạp Chín làm đệ tử.
Tuy mưu sự
không thành nhưng anh vẫn không thôi hy vọng của
mình.
Chừng tháng sau, anh lại tay nải từ
Cao Bằng tìm về Phú Thọ. Lần
này, thứ mà anh nhận được
vẫn chỉ
là những cái lắc đầu.
Thế rồi,
một lần
(năm 1981), lúc đi làm nhiệm
vụ, anh bị thương
phải cắt
bỏ hoàn toàn chân phải. Khi vết thương
liền da, nhớ miền
quê Văn Khúc và ông thầy
võ... khó tính, anh lại
lóc cóc tìm về.
Đi cùng anh lần này có cả Thành "vuông", một chàng trai Hà Nội, nghe tiếng vị
sư phụ
kỳ lạ mà háo hức muốn
được tỏ tường.
Gặp mặt,
vị danh sư nói thẳng
thừng: "Anh lành lặn tôi còn không nhận, huống
chi nay đã là người
tàn phế! Anh không học võ được đâu!". Câu nói
đó đã làm ruột gan Chín quặn thắt.
"Đau" hơn
khi bạn đồng
hành với anh, Thành "vuông", lại được
sư phụ
thu nạp.
Uất ức,
trước khi ra về anh... thề: "Sư phụ
nhận tôi thì 6 tháng tôi xuống một
lần! Không nhận thì tháng nào tôi cũng xuống!". Tháng sau, một mình, anh xuống thật.
Lần này, thấy anh lóc cóc chống nạng
vượt quãng đường hơn 25 cây số từ
ga Phú Thọ sang, vị danh sư đã động
lòng trắc ẩn.
Ông đã đồng ý truyền võ cho anh nhưng với
điều kiện
chờ ngày tốt, về
Bắc Giang ông mới dạy.
Võ phái kỳ lạ.
"Ngày tốt" ấy là ngày 09/10/1984. Đã hẹn trước,
anh Chín có mặt tại nhà một người
quen của sư
phụ ở
làng Mỹ Độ,
sát thị xã Bắc
Giang. Đến được
ít phút thì sư phụ anh cũng xuất hiện.
Ngay chiều hôm ấy, anh đã thành người của phái Thất Sơn.
Cũng ngay ngày hôm ấy, anh mới tường
tận về
môn phái của mình.
Theo lời thầy
Lộc thì "thủ phủ"
của Thất
Sơn Thần
Quyền nằm
ở Huế,
do tông sư Nguyễn Văn Cảo nắm
quyền chưởng
môn. Sáng tổ Nguyễn Văn Cảo học
Thần Quyền
từ một
vị cao tăng người Ấn Độ.
Cao tăng lưu lạc sang Việt Nam từ khi nào thì đến giờ
vẫn không ai biết rõ. Tới Việt
Nam, ông chọn vùng Bảy Núi (An Giang) làm chốn tu hành (có lẽ bởi
bậc thánh nhân tu luyện nơi
non thiêng này nên thầy Cảo
đã đặt tên môn phái của mình là Thất Sơn).
Dựa trên những căn bản mà vị tu sĩ lạ lùng ấy truyền dạy,
thầy Cảo
đã truyền dạy
thần quyền
cho nhiều người
khác. Thần quyền
học nhanh, do vậy chỉ
trong thời gian ngắn, ở
Huế đã có rất nhiều
người trở thành môn đồ của
võ phái này.
Khi nhập môn, môn đồ của
môn phái phải đứng trước
ban thờ thề
đủ 9 điều
(càng học cao thì số lời
thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người
sẽ được
sư phụ
mình phát cho hai lá bùa hộ
thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền
và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái.
Trước khi truyền thụ
những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được
đem đốt, lấy
tro hòa vào nước cho người mới nhập
môn... uống cạn.
Thần chú của môn phái thì có rất nhiều,
gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương...
Đã được
truyền thần
chú thì môn sinh cứ
tự mình gọi chú mà xin sức mạnh,
mà tập quyền
cước.
Tuy thế, trước
khi tập, người
luyện thần
quyền phải
được sư phụ
mình khai thông tất
cả các huyệt đạo
trên cơ thể.
Việc ấy,
các sư phụ
của Thất
Sơn thường
làm bằng cách dùng nắm nhang đang nghi ngút khói thổi vào huyệt đạo
của đệ
tử. Với
môn sinh là nam giới
thì dùng 7 nén nhang thổi
7 lần vào mỗi huyệt
đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần.

Thần
chú vào... võ công ra .
Anh Chín kể,
hôm ấy, xong nghi thức nhập
môn, sư phụ
Lộc đã kéo anh ra sân và chỉ trong vòng 1 giờ đồng
hồ, ông đã truyền thụ
xong xuôi cho anh lời
chú xin quyền.
Theo lời của
sư phụ
Lộc, lời
chú ấy anh không được phép tiết lộ
cho bất kỳ ai nếu chưa
được
phép của những
người đứng đầu
môn phái. Truyền chú xong, sư phụ
anh bảo, cứ
nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc...
ra đến đó.
Thấy thầy
dạy mình quá nhanh, anh hết sức
ngạc nhiên. Cứ nghĩ, có lẽ bởi
gượng ép khi thu nạp nên thầy Lộc
mới dạy
anh một cách sơ sài đến
vậy. Sau này, khi trình độ bản
thân được nâng cao, anh mới biết,
với anh cuộc truyền thụ
kỹ năng cơ bản
của môn phái như vậy
là quá lâu.
Thường thì khi truyền chú cho đệ tử
khác, thầy Lộc
chỉ làm trong thời gian vỏn vẹn
15 phút là xong. Anh cũng vậy,
khi được phép dạy đệ
tử, anh cũng chỉ mất
ngần ấy
thời gian là đã... hết bài. Còn học như
thế nào, luyện như
thế nào, trình độ đạt
đến đâu là cơ duyên của
mỗi người
chứ thầy
không chỉ bảo
được.
Ngay chiều hôm ấy, thầy
Lộc đã kéo anh ra khoảng sân rộng, bắt
đầu luyện
tập quyền
pháp. Trước khi tập, thầy
lấy nắm
nhang nghi ngút khói thổi
vào tất cả
những huyệt đạo
trên cơ thể
anh. Làm xong, thầy
bảo anh nhẩm đọc
chú để... gọi
võ về. Thật
ngạc nhiên, khi vừa đọc
chú xong, anh bỗng
thấy mình lâng lâng như người
say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng,
lúc thì thấy nặng như
đang khuân cả khối
sắt trăm cân.
Chín kể, khi đã "nhập đồng",
cứ thấy
nhẹ bên tay nào là "chưởng" đánh ra tay ấy. Trạng
thái không kiểm soát ấy đã khiến anh lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng
tưng trên không, lao đầu
vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết.
Tỉ thí tranh tài .
Hết nghỉ
phép, Xuân Chín về
nơi an dưỡng. Vì đang chờ chế
độ nên anh có nhiều cơ
hội để
luyện tập
môn võ mà mình vừa
được học. Cứ
đêm đến, anh lại một
mình chống nạng
lên quả đồi
ở gần
đó luyện tập.
Sáu tháng sau, anh quay lại
Văn Khúc để thầy Lộc
kiểm tra "trình độ".
Sau bữa cơm
chiều, thầy
Lộc bảo
ông sẽ không trực tiếp
kiểm tra mà nhờ thầy
"cao tay" hơn
thẩm định.
Vị ấy
tên Cư, nhà ở
gần bến
phà Tình Cương, cách nhà thầy Lộc
chừng 15 cây số. Thần
Quyền ở
Văn Khúc chính là do ông Cư
mang từ trong Huế ra truyền dạy.
Tối hôm đó, hai thầy trò đã đèo nhau đến nhà ông Cư. Biết
Chín muốn thử
trình độ của
mình, ông Cư đã gọi hai đệ tử
to như hộ
pháp đến. Trước
khi đánh, ông Cư
giới thiệu,
hai đệ tử
của ông được gọi là những “cây đấu” của
Thất Sơn.
Những ai muốn "khẳng định
thương hiệu" của riêng mình thì đều phải
đánh với hai "cây đấu" ấy.
Ngay phút khởi động, một
“cây đấu” đã táng thẳng vào mặt Chín cú "thôi sơn" khiến anh nổ đom đóm mắt. Nhưng
ngay sau cú
đánh ấy, anh thấy mình tự dưng
lùi ra, quay hẳn lưng
vào đối
thủ. Chẳng
cần để
mắt động
tác khó hiểu của anh, người tấn công lại ngay lập tức
lao vào. Thế nhưng, vừa
vào gần đến
nơi thì bỗng
nhiên tay phải Chín vung ra một cú đòn cực mạnh.
Một tiếng
“bốp” chát chúa vang lên, “cây đấu” ấy
bị đánh văng ra góc sân và nằm bất
động.
Thấy
đệ tử
mình bị hạ
nhanh một cách khó hiểu, ông Cư vội
vàng chạy đến
xem thực hư
thế nào. Cậu học
trò cưng nằm
im, mồm miệng
be bét máu. Phần thắng đã thuộc về
Chín.
Sắp
xếp công việc, ít lâu sau, anh Chín lại theo thầy Lộc
vào Huế để
nhờ tông sư môn phái kiểm
tra trình độ thật sự
của mình. Chưởng môn phái Nguyễn Văn Cảo (phường
Phú Cát, Huế) đã đón hai thầy trò anh rất thân tình.
Hôm ấy, nhà thầy Cảo
có một đệ
tử học
Thần Quyền
được 10 năm, từ Quảng
Bình vào thăm. Thầy
Cảo bảo
Chín đấu với
người này. Kịch bản
của trận
đấu ở
Phú Thọ đã được
lặp lại.
Vào trận, ngay màn dạo đầu,
Chín dính đòn tới
tấp. Thế
nhưng, trong lúc nguy nan, tự nhiên anh thấy chân mình mềm oặt.
Xoay lưng lại
đối thủ,
anh quỳ xuống như người
bị trúng đòn chí mạng. Đối
thủ thấy
vậy thừa
thắng lao lên...
Nhưng, như có phép tiên, dù chỉ
còn mỗi chân trái mà anh vẫn bật
vút lên, lộn trên không một vòng rồi tung cú "thiết cước"
vào thẳng bụng
đối thủ.
Cú đá ấy đã làm vị kia văng ra, thầy Cảo
ngay lập tức
cho dừng trận
đấu. Sau trận đấu
đó, bởi quá khâm phục sự
tiến bộ
kỳ lạ của
anh, thầy Cảo
đã cân nhắc để anh được thăng đai vượt cấp.
Thế nhưng,
điều đó chưa từng
có tiền lệ
trong môn phái nên thầy
đành để anh ở
đai đỏ xuất
sư. Người
đeo đai đó thì đã có thể
làm thầy, truyền thụ
võ công cho những môn sinh
khác. Sáu tháng sau, vào lại
Huế, lần
này chưởng môn Nguyễn Văn Cảo đích thân ra chợ mua chỉ về
se đai tím cho anh.
Dựng nghiệp bất
thành .
Rời quân ngũ, anh Chín về quê sinh sống, thỉnh thoảng ra Hà Nội gặp
gỡ bạn
bè. Những năm ấy, phong trào chấn hưng
võ thuật cổ
truyền ở
thủ đô đang ở cao trào, thấy Thất
Sơn Thần
Quyền của
mình chưa có một
tên tuổi trong làng võ Việt, anh và một số
người bạn đã quyết tâm gây dựng môn phái.
Để khẳng
định sức
mạnh của
Thần Quyền,
Hội khỏe
Phù Đổng năm 1986 được tổ chức
ở Hà Nội,
các bạn anh đã tiến cử
anh tham gia. Chuẩn
bị cho sự kiện
này Chín đã lặn lội lên Cao Bằng, tìm cậu bé mà trước đây anh đã ngẫu hứng
truyền thụ
võ công, đưa về Hà Nội
cùng mình biểu diễn. Cậu
bé ấy tên Điệp, khi ấy vừa
tròn 6 tuổi.
Tại sân vận động
Hàng Đẫy, với
tiết mục
Thần Quyền
của mình, hai thầy trò một tàn phế, một
tóc còn để chỏm đã dinh về hai tấm huy chương vàng trước sự trầm
trồ, thán phục của
mọi người.
Sau màn ra mắt, được sự "chỉ đường
mách lối" của cố
võ sư Đỗ
Hóa, anh cùng các bạn
đã tìm đến một
chức sắc
ở Hội
Võ thuật cổ
truyền Hà Nội nhằm
đưa môn phái "phát dương
quang đại".
Thế nhưng,
nhiều người
cho rằng Thất
Sơn Thần
Quyền là tà thuật, mê tín dị đoan nên mong ước của anh đã không thể thành hiện thực.
Dựng phái không thành, anh em tan rã
mỗi người
một nơi,
Xuân Chín đâm nản. Tuy thế, sau này, tham gia phong trào thể thao người khuyết tật,
anh vẫn đem thần quyền
đi biểu diễn
ở khắp
nơi.
Năm 2004, tại một
cuộc liên hoan võ thuật tại
Hàn Quốc, anh đã được ban tổ chức
trao tặng huy chương vàng cho tiết mục
Thần Quyền
độc đáo của mình. Càng hạnh phúc hơn khi ngay sau đó, hình ảnh của
anh, một người
cụt chân đang thăng hoa cùng quyền thuật
đã được ban tổ chức
in lên lịch lưu
niệm tặng
các vận động
viên tham gia.
Cũng từ dạo
ấy, bởi
cuộc mưu
sinh anh đã
xin thôi và không tham gia phong trào thể thao nữa. Thần
quyền anh cũng ít tập hơn
và cũng không truyền dạy
bí kíp võ công này cho bất
kỳ ai...
Lời thề
của môn phái Thất Sơn
Thần Quyền:
Một lòng hiếu thảo
với cha mẹ; Không phản môn phái; Không phản thầy;
Không phản bạn;
Coi bạn như
anh em ruột thịt; Không cưỡng bức kẻ
yếu; Không làm điều gian ác; Không ham mê tửu sắc;Không
nản chí khi luyện tập;
Không thoái lui lúc nguy hiểm;
Luôn bảo vệ
kẻ yếu;
Nhịn kẻ
mất lòng ta; Thi hành nghiêm chỉnh những
lời thầy
dạy; Ôn hòa trong tình bạn; Không tự cao tự đắc;
Cứu người
trong lúc nguy nan...
Theo: www.nhantrachoc.net.vn.
Nguyễn Minh Huệ nói...
" Đầu
những năm 80 của thế
kỷ trước,
Tình Cương là một trong những “cái nôi” của phong trào tập luyện
võ thuật theo phái Thất Sơn
Thần Quyền
(dân gian gọi là “võ bùa”).
“Vị tên Cư”
trong bài viết này tên thật là Nguyễn Phong Cư, sinh năm 1950, nhà ở chỗ
lưng chừng
dốc Chủ
Chè, làng Tình Cương,
xã Tình Cương. Từ năm 1980 – 1985 cao thủ Nguyễn
Phong Cư đã huấn
luyện được
một số
“đệ tử”,
trong đó có 12 “môn sinh” đã có đẳng
cấp khá cao (7 người ở Cẩm
Khê, 3 cán bộ công an, 1 bộ đội
và 1 ở Hải
Phòng). Theo những
người rành về môn này cho biết: “Thầy Cư” theo học “Thầy
Cảo” (Nguyễn Văn Cảo, ở
Huế) từ
năm 1976 khi ông còn là công nhân xây dựng
cầu đường
ở miền
Trung. Sau khi “đắc
đạo”, Nguyễn Phong Cư về
quê Tình Cương sinh sống và góp phần truyền bá môn “võ bùa” này cho khá nhiều người.
Một vị
cao thủ thứ
2 ở Tình Cương tên là Nguyễn Trần
Cương, nhà ở xóm Chùa, làng Tình Cương, xã Tình Cương (kém ông Cư vài ba tuổi,
nhà ở phía sau Tổ Đình Long Khánh hiện nay). Ông Cương khá kín tiếng và cũng đã chiêu nạp được
một số
“đệ tử”
rồi huấn
luyện “võ bùa”, ngồi thiền,…
Những năm 1985 – 1986, có khá đông người từ khắp
các nơi tụ
tập về
Tình Cương theo học môn Thất Sơn
Thần Quyền
do ông Cư và ông Cương
hướng dẫn. Bên cạnh “cái được” của Thất
Sơn Thần
Quyền ở
Tình Cương là xây dựng được
phong trào tập luyện võ thuật nâng cao sức khỏe,
tu thân tích đức,… thì cũng xuất hiện
“cái chưa được”
đó là “làm ảnh hưởng đến sản
xuất và phong trào xây dựng nếp
sống mới,
gây mất trật
tự an ninh ở địa
phương”. Tháng 6 năm 1986, Công an huyện Cẩm
Khê cho gọi 7 người có mặt ở
các xã trong huyện
đã vào “hội võ bùa” đến để
giáo dục, kiểm
điểm và cam kết từ
bỏ. Phong trào tập luyện
“võ bùa” từ đây không còn tấp nập
như trước.
Ngày nay, thầy Nguyễn Văn Cảo cũng đã “ra đi cùng tiên tổ”, môn Thất Sơn
Thần Quyền
có còn hoạt động ở
Tình Cương nữa hay không, có lẽ chỉ
có ông Nguyễn Phong Cư và ông Nguyễn
Trần Cương
đều
ở làng Tình Cương, xã Tình Cương mới chọn
được câu trả lời
chính xác.".
“ Phụng thỉnh
năm non , bảy núi. Phụng thỉnh
núi Sam, núi Sập, Núi Cấm , núi Két , núi Tô, núi Tổ . Phụng
thỉnh Tà Lơn – Thất
Sơn. Phụng
thỉnh chư
vị Phật
Tổ. Phụng
thỉnh Phật
ông , Phật bà. Phụng thỉnh
Phật Thầy
, Phật cô. Phụng thỉnh
bà Tổ , mẹ
Tổ. Phụng
thỉnh 5 ông Tổ . Phụng
thỉnh Tam Giáo Đạo Sư
. Phụng thỉnh
tiền Tổ
hậu Tổ
. Phụng thỉnh
thập nhị
Tiên khai. Phụng thỉnh 12 vị Tổ.
Phụng thỉnh
Thiên binh , Thiên tướng
. Phụng thỉnh
thập nhị
Sơn Thần.
Phụng thỉnh
12 vị quan Tà á rặc. Phụng
thỉnh Tà Muôn, Tà Bạch , Tà Gầm , Tà Hầm, Tà Há , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Két , Tà Rắn , Tà Hồng , Tà Sanh , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Gầm , Lục
Tặc Tà Hom , Tà Lơn ,Thất
Sơn , Ông Lục
Tà Rù , Ông Chúa lèo , Ông Tà Đỏ.Phụng thỉnh
12 đạo binh rừng, binh rú, binh mọi, binh rợ, tướng
Lèo hồi cung thanh thỉnh. Hộ
độ cho đệ tử
tên … tuổi …được
thành công đắc đạo.
Nam mô a di đà Phật.Hắc tô hắc nây – Ô ta thia ly âm.Cà thăn săn
– rặc rặc
ơ.Mơn
mơn lừng
lừng che.”
12 VỊ
THẦN TÀ :

Ông Tà có nguồn
gốc từ
kho tàng văn hóa của
người Khmer. Đó là một vị
thần mang tên Neak-ta, có quyền năng cai quản trong phạm vi phum sóc hoặc một
khu vực rộng
lớn hơn.
Người Khmer cho rằng những
thiên tai, bệnh tật đều
do sự bất
kính của con người đối với
ông Tà. Mỗi lần đi ngang qua miễu ông Tà, họ đều
giở nón, lột khăn và kính cẩn nghiêng mình.
Thần Neak-ta khi đi vào cách phát âm của người
Việt đã được biến âm thành “Tà”, “ông Tà”. Té ra là
vậy, khỏi
phải suy nghĩ méo mó.
Theo khảo cứu
của cụ
Vương Hồng Sển,
“Neak-ta có nhiều
cấp bậc.
Có những ông Tà được thờ nơi
góc giường, chuyên lo chuyện trong nhà ngoài cửa. Có những ông lại lo việc cứu
người bị rắn
cắn. Lại
có những Neak-ta có miếu thờ
đàng hoàng ở các ngã ba, ngã
tư đường
hoặc đầu
gành cuối bãi, trách nhiệm và địa vị
cũng giống như
thổ địa
của người
Việt”.
Trong quá trình cộng
cư ở
miền Tây Nam Bộ, người
Việt, Khmer, Hoa đã có sự giao thoa văn hóa với nhau. Tục thờ
ông địa và thần tài của người
Việt xuất
phát từ người
Hoa, còn thờ ông Tà là của người
Khmer.
Trong cuốn Nửa
tháng trong miền Thất Sơn,
tác giả Nguyễn
Văn Hầu có đoạn ghi: “Ông Tà của người
Miên cũng như ông thần của
mình. Người ta tin rằng ông thần đã nhập vào viên đá mới xui khiến cho ai đó bắt gặp
được mà đem về thờ.
Bao giờ thần
không muốn ở
nữa thì bỏ mà đi và viên đá tự nhiên mất tích”. Tương truyền tại
vùng biên giới Tây Nam, xưa kia có một cái miễu ông Tà rất linh, nhiều người
thường mang tiền và lễ vật
đến cúng, đặt trước
các viên đá rồi bỏ về
nhưng không ai dám trộm
cắp vì sợ thần
bẻ cổ.
Về lai lịch của
ông Tà xưa nay có rất nhiều
giai thoại thật
huyền bí và hấp dẫn.
Có người đồn rằng
ông Tà được thờ trên bọng cây, nếu có ai đó bướng bỉnh, chơi cắc
cớ đem ném xuống ruộng,
nhất định
vài hôm sau ổng sẽ trở
về chỗ
cũ.
Để có được
một chỗ
thờ trang nghiêm, bà con chọn một
gò đất thật
cao, xung quanh vắng
vẻ để
dọn nền
cất miễu
thờ ông Tà. Cạnh bên miễu thường
trồng cây đa, cây xộp hoặc
bụi tre để tạo
bóng mát.
Với người
Việt, bà con chấp nhận
tục thờ
ông Tà cũng giống như tục
thờ thổ
thần hoặc
thần tài và ông địa, bởi
vì ai cũng muốn trong nhà
ngoài ngõ luôn có một
vị thần
trông coi việc gia cư, định
đoạt phúc họa và mang lại an cư lạc
nghiệp cho xóm làng. ( HOÀI VŨ ).
Thấm
thoắt thời
gian một tháng đã trôi qua trên đỉnh Cô Tô. Thày Chàm và các đồng Đạo
đã làm lễ Hạ
sơn cho tôi . Một chiếc
bàn Tổ được
bày ra trên sân tập,
vài cái ghế cho các vị Sư
phụ ngồi
xung quanh, trầm hương, đèn nhang được
đốt lên . Sau khi bày hương án, 4 vị chức
sắc cao cấp nhất
trong các vị Sư phụ
làm chủ tế
đồng loạt
đốt hương
khấn thỉnh
rồi xin keo. Keo là 2 miếng gỗ
hình móng ngựa tượng trưng cho lưỡng nghi âm dương. 4 vị Sư
phụ ném keo xuống nền
sân. Nếu cả
2 miếng keo cùng nằm sấp
hoặc cùng nằm ngửa
tức "Thần" chưa về.
Nếu 1 miếng keo nằm sấp
và 1 miếng nằm
ngửa là "Thần đã về". Khi đã có tín hiệu báo Thần đã về , một
vị Sư
phụ vung dùi đánh 3 hồi trống
"lệnh khai hội".
Tiếng
trống "lệnh khai hội" vừa dứt,
tôi đột nhiên rơi vào trạng
thái vô thức nhập xác lên đồng. Ngay lập tức
tôi như bay như lượn
trên sân, phóng ra những
đường quyền như
vũ bão. Hết bay, nhẩy, đấm
, đá liên tục , tôi tự nhiên phóng mình lên một cây mít nài cạnh đó và chỉ một
cú vả, một
đám to vỏ của
cây mít Nài đã bị
xé toạc ra, để lộ
lõi gỗ trắng
phếu. Trong đầu tôi tự nhiên những câu chú chạy qua chạy lại
như điện
xẹt : Xin na ca đi ; Phúc di tô
mi na da sử ; Nắc mô buốt thia dắc - Quýt tho gia ba phốp - Ca giá ba tích ming săn ăn ạ út…………..
Một loạt
tiếng vỗ
tay bất chợt
nổi lên, tôi vội đọc
Búp Tha để dừng quyền . Đứng
trước bàn thờ Tổ
, tôi nghiêm trang và dõng dạc
đọc to lời thề
của bản
môn đã được học trước
đó :
16 ĐIỀU NGUYỆN TRỌN.
1/ Con nguyện hết lòng hiếu thảo
với cha mẹ,
2/Con nguyện không phản lại
môn phái Thất sơn Thần
quyền.
3/Con nguyện không phản Đạo.
4/ Con nguyện không phản Thày.
5/ Con nguyện không ham mê tửu sắc.
6/Con nguyện không phản bạn
, coi bạn như
anh em ruột thịt.
7/ Con nguyện không ỷ mạnh
hiếp yếu.
8/ Con nguyện hết lòng hiệp nghĩa .
9/ Con nguyện không cưỡng bách những người
đã có chồng con.
10/ Con nguyện không làm điều gian ác.
11/ Con nguyện không tháo lui
trước nguy hiểm , luôn bảo vệ
kẻ yếu.
12/ Con nguyện không nản chí khi luyện tập
học hành.
13/ Con nguyện nhịn kẻ
mất lòng ta, ôn hòa trong tình bạn.
14/ Con nguyện không tự đắc
, tự cao, tự đại.
15/ Con nguyện cứu người
lúc lâm nguy.
16/ Con nguyện thi hành
nghiêm chỉnh lời dạy
của Thày.
Mười sáu lời thề
trên con xin ghi khắc
sâu vào trong lòng , chịu
sự phanh thây , đui mù hai mắt nếu
con không làm tròn . Con xin Thiên linh cái môn phái chứng cho.
Nam mô Quán thế âm Bồ tát ( 16x ).
Thề xong cầu các vị Thần
về chứng
giám :
+ Chơn Thần
Thiên tự ( Chứng
cho ).
+ Bắc sơn
Đạo
trưởng ( chứng giám ).
+ Chơn Thần
Điện Bà - Thiên tự Đạo
trưởng ( chứng giám ).
+ Chơn Thần
Lục hải
Thiên tự ( chứng giám ).
+ Chơn Thần
Thất sơn
- Đạo
Thần Thiên tự ( chứng giám ).
+ Chơn Thần
10 phương chư Phật
( chứng giám ).
Nam mô Quán thế âm Bồ tát ( 16x ).
Cầu chứng
cho con tên ....tuổi
.....quê quán .....
Thày Chàm đưa cho tôi mấy lá Bùa để uống
.
Luyện bùa xuất sư.
* Chế na nô thăn ngăn thăng măng a mọc măng.
* Chế cà nô xa xa tế.
Đọc 3 thổi 1x 7 lần vào bùa cả 2 câu uống sống
30 ngày.
Sau đó một vị
Sư phụ
trong ban giám khảo
quàng vào cho tôi một
chiếc khăn đỏ xuất
sư và ôm lấy
tôi rất trìu mến.
Ngày mai, hai Thày trò chúng tôi lại
xuống núi trở về
Tây Ninh . Mới có 1 tháng
trên đỉnh Cô Tô này mà tôi có cảm giác vô cùng thân thương với từng
gốc cây tảng đá . Tôi chợt lẩm
nhẩm mấy
câu thơ của
Chế Lan Viên :
“Nhớ
bản sương giăng,
nhớ
đèo mây phủ
Nơi
nào
qua, lòng
lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta
đi, đất
đã hóa tâm hồn!”

Theo chân những
đoàn quân của các Chúa Nguyễn, những
nhà truyền giáo, các Pháp sư, Phù thủy
từ miền
Bắc Việt
Nam mang theo những
bí thuật Huyền
môn của mình kết hợp
với Huyền
môn bản địa
mà tạo ra những trang sử huy hoàng của giới
Huyền môn Việt Nam.
Như vậy
ta thấy rằng
, kể từ
1558, khi Chúa Nguyễn
Hoàng bắt đầu
Nam tiến , Phật pháp và Huyền môn Việt Nam đã vận động
được một vòng tròn hoàn chỉnh .
Do tiếp nhận
những kiến
thức của
rất nhiều
vùng địa lý, của nhiều
dân tộc mà Huyền môn có nhiều chi phái khác nhau , mang nhiều tên gọi khác nhau. Tuy nhiên ta có thể thấy
về Phật
quyền và Thất sơn
thần quyền
có nguồn gốc
xuất xứ
khác nhau nhưng có những điểm
chung về nguyên tắc cơ
bản như
sau :
1/ Tuy là một môn võ có những đòn thế siêu đẳng, nhưng Phật
quyền và Thất sơn
thần quyền
các môn phái này chủ
yếu là để tự
vệ ,không được đánh người ,không được ngạo mạn
ỷ lại
hiếp đáp người cô thế .Luật
của các phái cũng hết sức
nghiêm minh ,ai vào thọ
giáo phải đứng
trước tổ thầy
đọc các lời thề
về giử
gìn đạo đức
và tôn kính Trời Phật Thánh Thần , rất
nguy hiểm khi có đệ tử
nào vi phạm thì khó tránh
khỏi kiếp
nạn do chính mình chọn ra. Ngoài ra còn phải kiêng cử trong ăn uống tuỳ theo môn phái bùa có quy định, như : Chó ,Trâu ,Mèo là phải
kỵ tuyệt
đối , còn nhiều thứ
khác phải kiêng kỵ tuỳ theo môn phái của mình.
2/ Trước khi tập thì môn sinh đều phải
cầu Thầy
Tổ về
trợ giúp. các Thày Tổ ở
đây với mỗi
một môn sinh là khác nhau, không ai
giống ai cả. Theo hiểu biết
của dienbatn thì những Thày Tổ này là những vị
Thày Tổ từ
nhiều căn kiếp trước
đã từng dạy
cho người đó, nay cầu về,
các ngài tiếp tục dạy
hay trực tiếp
phát công , phát ra những
thế đánh của bản
môn Thầy Tổ
đó .
3/ Trong Phật quyền và Thất sơn
thần quyền
: Quan trọng nhất vẫn
không phải học
quyền mà là .... học Đạo
. Trong việc học Đạo,
ngoài các Giáo lý nhà Phật
ra, môn sinh đều có những bài tập về
đọc chú , luyện khí, luyện gồng,
luyện một
số công năng đặc di khác .
4/ Theo các vị sư phụ
của dienbatn truyền lại,
Phật quyền
và Thất sơn
thần quyền
ngày xưa có tới
7 nhánh : Tuy cùng là thờ
các vị chư
Phật, chư
Bồ tát nhưng 7 nhánh này chia ra luyện chuyên sâu theo từng vị
Phật mà chi nhánh đó nhận làm Tổ . Các nhánh đó lần lượt
nhận các chư Phật
sau làm Thầy Tổ :
* Đức Di Lặc Phật
Vương,
* Đức
Tây phương cực lạc
A Di Đà Phật.
* Đức Phật
Quán thế âm Bồ
tát.
* Đức Đại
Phổ hiền
Bồ tát.
* Đức Đại
Thế chí Bồ tát.
* Đức Phật
mẫu Chuẩn
đề vương
Bồ tát.
* Đức Bồ
tát tôn giả Mục Kiền
Liên.
Trải qua nhiều thăng trầm của
thời gian, ngày nay ta chỉ còn thấy nhiều
nhất là hai nhánh võ phái nhận Thày Tổ là : Đức Phật
Quán thế âm Bồ
tát và Đức Phật mẫu
Chuẩn đề
vương Bồ tát. Riêng phái nhận Đức Đại
Thế chí Bồ tát chỉ còn tại một
vài nơi hẻo
lánh và có môn quy rất
nghiêm ngặt hầu như
những người
lạ khó xâm nhập vào được.
5/ Cũng theo những
gì dienbatn được truyền lại
: Khi điểm Đạo
cho học trò Phật quyền
và Thất sơn
thần quyền
, các vị chân sư phải
truyền dẫn
nội công , khai mở 7 luân xa :
1. Luân xa thứ Nhất: Muladhara chakra (sanskrit). Vị trí nằm giữa
hậu môn và bộ phận
sinh dục, tương
đương
với huyệt
Hội Âm là hội hiệp
các âm linh của châm cứu học.
Nó được biểu hiện
bằng một
bông sen bốn cánh màu đỏ, chủng
tự tiếng
sanskrit của nó là LAM. Luồng hỏa
hầu Kundalini nằm phục
ở đây. khi thành tựu phép quán tưởng luân xa này, sẽ làm chủ được
địa đại,
tiêu trừ nghiệp
quá khứ, biết
được ba thời quá khứ, hiện
tại, vị
lai, thọ hưởng
niềm hoan lạc tự
nhiên.
Ở đây Ngài A Di Đà làm chưởng Quản tiếp
dẫn những
giác linh, chơn linh, hương linh, vong linh về cảnh
giới của
Ngài, ngài cho xuất
gia.
2. Luân xa thứ Hai:
Svadhisthana chakra. Vị
trí nằm dưới
rốn chừng
bốn ngón tay, tương đương
với huyệt
Đan Điền , biểu hiện
bằng bông sen sáu cánh màu cam, chủng tự
là VAM. Thành tựu
phép quán tưởng luân xa này sẽ làm chủ được
thủy đại
và các giác quan, biết
được cảnh Trung giới (monde astral).
Chưởng quản ở
đây là ngài Cam Lồ
Vương Như Lai, khi chúng ta đến
cảnh giới
nầy thì chúng ta sẽ được
học phép thắng tất
cả: Tham ái, giận hờn,
ngã mạn, ganh tỵ và các phiền não khác đều được
tiêu trừ. Vượt
thoát tử thầncủa các cõi. lúc nầy chúng ta chứng quả
thượng thừa của
tầng hai nầy lảnh
sắc lệnh
lên tầng thứ
ba.
3. Luân xa thứ Ba: Manipura
chakra. Vị trí ở giữa
rốn tương
đương
với huyệt
Thần khuyết. Biểu
hiện bằng
bông sen mười cánh màu vàng,
chủng tự
là RAM. Chưởng quản ở
đây là Ngài Ly Bố
Úy Như Lai, ở đây Chúng ta học phép thành tựu phép làm chủ hỏa
đại, không còn sợ lửa
thiêu đốt, hoàn toàn thoát khỏi ngũ hành kim mộc thủy
hỏa thổ.
lúc nầy chúng ta chứng quả
thượng thừa của
tầng ba nầy lảnh
sắc lệnh
lên tầng thứ
tư.
4. Luân xa thứ Tư:
Anahata chakra. Vị
trí ở giữa
ngực, tương
đương
với huyệt
Ðản trung. Biểu hiện
bằng bông sen mười hai cánh màu xanh lá
cây, chủng tự
là YAM. Chưởng quản ở
đây là Ngài Quảng Bác Thân Như Lai, ở đây ngài dạy chúng ta học phép Thành tựu làm chủ phong đại, tùy ý bay lượn trong không gian hoặc chui nhập vào thân người khác, đầy đủ
đức tính của chư
thiên và tình thương vũ trụ. lúc nầy chúng ta chứng quả
thượng thừa của
tầng bốn
nầy lảnh
sắc lệnh
lên tầng thứ
năm
5. Luân xa thứ Năm: Visuddha
chakra. Vị trí ở ngay dưới cổ, tương
đương
với huyệt
Thiên đột. Biểu
hiện bằng
bông sen mười sáu cánh màu
xanh da trời. Chủng tự
là HAM. Chưởng quản ở
đây là ngài Diệu Sắc Thân Như Lai, ở đây chúng ta được học phép Thành tựu làm chủ không đại, thân thể không bao giờ tàn hoại, ngay cả khi thế gian bị tiêu diệt, đạt
được trí huệ thông suốt tất
cả kinh điển vô tự và ba thời: quá khứ, hiện
tại, vị
lai. lúc nầy chúng ta chứng quả
thượng thừa của
tầng năm nầy lảnh
sắc lệnh
lên tầng thứ
sáu
6. Luân xa thứ Sáu: Ajna
chakra. Vị trí ở giữa
hai chân mày nơi mà huyền môn thường gọi là con mắt thứ
ba, tương đương
với huyệt
Ấn đường.
Biểu hiện
là bông sen hai cánh màu xanh nước
biển, chủng
tự là A. Chưởng quản ở
đây là Ngài Bảo Thắng Như
Lai ở đây chúng ta được học phép trở thành người hoàn toàn giải thoát liền đắc
cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng. lúc nầy chúng ta chứng quả
thượng thừa của
tầng sáu nầy lảnh
sắc lệnh
lên tầng thứ
bảy
7. Luân xa thứ Bảy: Sahasrara chakra. Vị trí ngay trên đỉnh đầu,
tương đương
với huyệt
Bách hội. Biểu
hiện bằng
bông sen ngàn cánh màu tím, trắng,
vàng. Chủng tự
là OM. Khi luồng hoả hầu
Kundalini chạy lên tới đây, Chưởng quản ở
đây là Ngài Đa Bảo
Như Lai , ở đây chúng ta được học phép trở thành một bậc
giác ngộ giải
thoát hoàn toàn. Hòa đồng
Vũ Trụ gọi
là Đạo. lúc nầy chúng ta chứng quả
thượng thừa của
tầng bảy
nầy lảnh
sắc lệnh
ra ngoại Càn Khôn Vũ Trụ.
" Có một cấp bậc
điểm đạo
tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới
trình độ đó không chỉ được
tạm thời
giải thoát khỏi thể
xác vật chất
để chứng
minh sự tồn
tại của
linh hồn, mà còn được đưa lên những
cảnh giới
thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại
thể của
vũ trụ. Kinh nghiệm huyền
diệu đó giúp phá vỡ sự
cố chấp
hữu hạn
của con người và do đó mới có thể tiếp
xúc với sự
hiện hữu
chân thật trường
cửu của
hết thảy
mọi sinh thể. Trong một thời
gian ngắn, người
môn đồ được
cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu
với thực
thể của
muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi,
nhưng giây phút cảm
thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối
với cuộc
đời. Người
môn đồ ấy
đã chia sẻ một phần
cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận
được. Người ấy xem như đã khám phá được
cái ánh sáng huyền
diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của
bản thể,
mà so với nó thì thể xác vật chất
này chỉ là giả tạm
và vô nghĩa. Vì thế,
người môn đồ sau khi được điểm đạo
đã thật sự
được hồi sinh trở lại,
theo đúng ý nghĩa cao cả
nhất của
danh từ này.
Như thế,
cuộc điểm
đạo là sự đạt
tới một
viễn cảnh
mới của
cuộc đời,
cái viễn cảnh
tâm linh mà nhân loại
đã đánh mất trong thời dĩ vãng xa xăm, khi rơi từ
“Thiên đàng” xuống
cõi vật chất.
Khoa huyền môn giúp ta thực hiện
sự trở
về nguồn
cội ngay từ bên trong, và đưa ta đi tuần
tự từ
bước một đến
sự giác ngộ hoàn toàn. Khoa huyền môn hé mở cho ta thấy trước
hết là những cảnh
giới tâm linh huyền bí vượt ngoài giới hạn
nhận biết
trong cõi vật chất của
trần gian, và sau đó tiết lộ
cho ta những điều huyền
diệu rốt
ráo và tính chất thiêng liêng của tâm thức con người. Khoa huyền môn giúp cho người môn đồ nhìn thấy được
những cảnh
giới dường
như địa
ngục âm ty để thử
thách tâm trí và lòng kiên quyết,
cũng như để
người ấy được
có dịp học
hỏi và mở rộng
tầm nhận
thức. Kế
đó, người môn đồ được
nhìn thấy những
cảnh giới
Thiên đàng tốt đẹp để
khuyến khích và ban ân huệ. Nếu
khoa huyền môn vẫn phải
dùng đến phương
tiện đồng
thiếp thì điều đó không có nghĩa là không còn phương pháp nào khác. Đó chỉ là một
phương tiện được
áp dụng, nhưng cảnh
giới tâm linh có thể được
đạt tới
bằng nhiều phương
cách khác nữa, và không cần phải
áp dụng phương
pháp xuất thần.
Tuy nhiên, lịch sử của
nhân loại luôn luôn theo định luật
chu kỳ, những gì đã từng xảy
ra, sẽ tái diễn trở
lại. Một
lần nữa,
con người đã trải qua một thời
kỳ hỗn loạn
và hắc ám, trong khi đó lại cảm
thấy một
sự băn khoăn bất mãn do nhu cầu tự
nhiên của bản
tính con người là muốn lặp
lại sự
giao tiếp với
cảnh giới
tâm linh huyền diệu huy hoàng. Bởi vậy,
tôi hy vọng rằng
những điều
kiện sẽ
có thể được
tạo nên, những hoàn cảnh thuận tiện
sẽ đến
và những nhân vật đủ
thẩm quyền
và khả năng sẽ xuất
hiện, để
nhờ đó mà một lần
nữa trên địa cầu
này sẽ được
tái lập tổ
chức huyền
môn, dưới những hình thức hoàn toàn mới mẻ
tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với
thời đại
tân tiến hoàn toàn khác hẳn với
thời đại
cổ xưa.
"
" Những vị đạo
đồ trong khoa huyền môn thời cổ
phải long trọng tuyên thệ là không bao giờ tiết
lộ những
gì xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng,
dù sao thì lễ điểm đạo
cũng chỉ được
cử hành mỗi năm cho một số
rất ít môn đồ. Sự
hiểu biết
giáo lý mật truyền không bao giờ được
ban bố cho nhiều người
cùng một lúc. Bởi lẽ
đó mà không một nhà văn thời cổ
nào đã đưa ra được
một tường
trình đầy đủ
và mạch lạc
về những
gì được gọi là giáo lý huyền môn, vì các vị môn đồ luôn giữ đúng lời cam kết một
cách chặt chẽ.
Những chân lý được truyền dạy
trong các đạo viện huyền
môn là do sự tiết lộ
mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ
lúc phát sinh những
nền văn minh cổ xưa
nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được
giữ gìn nguyên vẹn để
duy trì sự tinh khiết của
nó. Như thế,
người ta hiểu tại
sao khoa huyền môn được ẩn giấu
cẩn mật
và giữ gìn chặt chẽ
ngoài tầm tay của kẻ
thế nhân phàm tục.
Tại sao những vị
đạo trưởng
lại có một sự
dè dặt vô cùng chặt chẽ
như thế?
Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết
được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần
phải loại
những kẻ
hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần
bí dẫy đầy
nguy hiểm cho tánh mạng của
người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm
thường.
Ngoài ra, rất có thể là có nhiều người,
vì không đủ sự chuẩn
bị sẵn
sàng cho một kinh nghiệm như
thế, sẽ
trở nên điên cuồng hoặc
thiệt mạng
sau cuộc thử
thách. Bởi đó, lễ điểm
đạo luôn luôn chỉ là đặc
ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người
đã gõ cửa cầu
xin điều đó ở
các đền huyền
môn nhưng vô ích. Những
người khác, bị đặt
dưới hàng loạt những
cuộc thử
thách sơ đẳng
mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ
sự gan góc cần thiết
để tiến
xa hơn nữa,
hoặc cảm
thấy lòng ước muốn điểm
đạo nguội
bớt dần.
Về sau, sự sa đọa
vật chất
của con người đã làm cho các vị đạo
trưởng chân chính của thời
xưa dần
dần biệt
tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục,
và thay chân các ngài là những
kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ
thấp khoa huyền môn cao cả. Những
kẻ bất
chính, có tham vọng
đạt được
những phép thần thông của bàng môn tả đạo,
sau cùng đã chiếm
ưu thế
để giành quyền kiểm
soát các đạo viện huyền
môn ở Ai Cập
và những nơi
khác.
Những gì từ lúc nguyên thủy vốn
là thiêng liêng, chỉ
dành cho những người chọn lọc
nhằm mục
đích duy trì ngọn
lửa thiêng tinh khiết của
sự sống
tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ
tà tâm, buôn thần
bán thánh. Đó là những
sự kiện
lịch sử,
làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của
nhân loại thời
cổ xưa
đã trở nên suy tàn. " -( Theo Ai Cập huyền
bí ).
Chính vì vậy ngày xưa Thầy
Tổ có truyền lại
:
" Một
đêm nọ
Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư
, Pháp
sư con nghe ta dạy,
Ấn tướng và Pháp chú - Là bí
mật hiển vi.
Của
Phật
, Hiền,
Thánh chúng.
Có cảm
thì có ứng,
Và không thể
giải
thông.
Cũng không thể
tạo khuôn,
Đệ
tử muốn gia trì,
Hoặc
truyền
Đạo đại chúng.
Nên nhớ
là lúc tập
và lúc niệm,
Năng tinh tấn
chuyên cần.
Và hành nơi
vắng lặng.
Không cho ngoại
Đạo niệm.
Bởi
ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc
khích nhiễu.
Đây là một
nghiêm luật.
Đệ
tử chiếu phụng hành . "
LỜI
KẾT.
Bùa chú là khoa học
của người
xưa đã được
loài người tin dùng và lưu truyền trong chốn nhân gian tại các Quốc gia cho tới ngày hôm nay. " Cái gì tồn tại
lâu dài , dai dẳng
- Tự bản
thân nó đã có lý " .
Những kẻ
ác tâm thì thường thích học Bùa ếm , còn những người
thiện tâm hay cầu học
Bùa giải. Hai mặt ÂM - DƯƠNG cùng tồn tại
trong một thể
thống nhất
của Vũ trụ. " Nhất âm - Nhất Dương
chi vi Đạo
" ( Một Âm - Một Dương
mới là Đạo ). Nếu biết
dùng Bùa ếm để trấn
ếm kẻ
tà tâm , độc ác , bắt họ
phải hồi
tâm , phục thiện
, làm việc nhân đức thì cái ác đó không hẳn là ác. Đó là cái Đại Hùng, Đại Lực
của những
người thay Trời hành Đạo . Ngày nay những người
không được chân truyền , lợi
dụng danh nghĩa Bùa chú làm những điều
sai trái đạo đức , khiến cho dân lành gặp nhiều
khốn khó, dư luận
lên án , xã hội chê cười . Chính vì vậy khi nghe tiếng Bùa chú người ta thường dị ứng
với điều
đó.
Thất sơn
Thần quyền
nói chung và Thần
quyền lục
pháp nói riêng ít được
phổ biến
vì chưa tìm được
những người
có tâm linh đạo đức tốt
để truyền
dạy. Các Đấng chân Sư có lời
than rằng : Những môn học về
thần bí sau này , chỉ lưu
lại rất
ít trong sách vở
hay được các học trò cất giữ
trong lòng ...thật
đáng tiếc và buồn thay cái vốn quý báu của ông cha dần dần
bị mai một và quên lãng.
" Mọi người
nên tìm hiểu đạo lý chân chánh của Bùa chú để kẻ
tà tâm không còn cơ
hội lừa
bịp ".
Đó cũng chính là mục
đích của dienbatn khi đăng tải loạt
bài này. Xin chân thành cảm
ơn các bạn
đã theo dõi.
Loạt bài này còn khá nhiều phần
nữa về
các dòng phái Huyền
môn Nam tông tại Việt Nam . Hẹn các bạn khi nào có dịp.
_______________
Nguồn:
sưu
tầm

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét