CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 23.
NHỮNG
NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ
phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN
MÔN. Đó là những tháng ngày vô
cùng vất vả,
trải nghiêm đủ Hỉ-
Nộ- Ái - Ố của
dienbatn . Cũng đã qua từ
lâu rồi , xin kể lại
để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ
và Đời sống
.
PHẦN
BA – THÀY CHÀM DẠY
VÕ THẦN CHO DIENBATN.
( Trong phần
bài viết này, dienbatn có sử dụng
nhiều tư
liệu của
các môn phái Võ thuật
và những tư
liệu sưu
tầm được
. Để mạch
văn được trơn chu , có thể có những tư
liệu không được ghi nguồn. Mong các tác giả cảm
thông. Xin trân trọng
cảm ơn
). Dienbatn.
Theo đúng như
đã thỏa thuận
giữa 3 người Thày, Những tháng sau đó Thày Chàm bắt đầu
dạy cho tôi về quyền
thuật . Khác hẳn những
môn quyền pháp mà ngày xưa ở
trinh sát Lào (  Ít-xa-la  ) tôi đã từng
được huấn luyện
. Môn này ngày đầu
tiên tới nhà Thày Bảy tôi đã từng được
chứng kiến
. Môn đó được gọi là “ Võ Thần “ hay “ Thất Sơn
Thần quyền
“. Để có thể học
tới nơi
, tới chốn
môn võ này , thày Chàm quyết
định đưa
tôi về miền
Thất Sơn
– Châu Đốc. 

Nửa
tháng sau , tôi đã xin nghỉ
phép tại cơ
quan và cùng thày Chàm xin phép ông , bà Bảy lên đường đi Châu Đốc . Hai thày trò được học trò của thày Bảy dùng xe hon da đưa ra bến xe Phước Vinh , cách nhà khoảng 10 km. Trời đầu
xuân mà nắng tưng bừng
khắp nơi
. Lúc này các lò đường
đã ngưng hoạt
động , nhưng những
núi xác mía còn trắng
phau khắp nơi
, bốc lên mùi ngòn ngọt , chua chua .Những vườn
điều lúc lỉu những
quả xanh , đỏ đung đưa theo gió sớm . Khu vực ngã ba Phước Vinh nằm trên lộ 788 thuộc ấp
Phước Lợi, xã Phước Vinh, huyện Châu Thành, Tây Ninh. Lộ 788 là một con lộ được
trải bằng
đất đỏ
, trải qua thời gian mưa nắng
và có nhiều xe Be đi qua
nên thật là kinh khủng. Mỗi
khi có một chiếc
xe chạy qua là một vùng bụi đỏ
chùm lên khắp nơi , nhìn ai nấy chỉ
còn có đôi mắt hiện lên trên khuôn mặt bám đầy bụi
. Thời gian này , mỗi ngày chỉ có vài chuyến xe đò đi lên Thị xã tây Ninh. Đợi chờ
mòn mỏi , cuối cùng thày trò chúng tôi cũng yên
vị trên băng ghế gỗ
nham nhở của
chiếc xe đò lở . Tới
trưa trật
chúng tôi mới tới Thị
xã Tây Ninh . Hai Thày trò ghé quán bên đường
ăn qua quít tô hủ
tiếu và hỏi thăm mới biết
ngày mai mới có xe về Sài Gòn . Thày Chàm dắt tôi đi thăm một khu di tích của dân tộc Thày ở gần
đó. Hai thày trò mướn
xe ôm đi thăm tháp Chót Mạt
được phát hiện vào đầu thế
kỷ XX, tọa lạc
tại ấp
Mới, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh . Khu Di Tích Đền Tháp Chót Mạt, được
xác định xây dựng khoảng thế
kỷ thứ
VIII sau công nguyên thuộc
nền văn hóa Óc Eo, Tháp Chót Mạt được
phát hiện chính thức cùng tháp Bình Thạnh (Trảng Bàng Tây Ninh) đầu thế
kỷ XX.
 Khoảng
năm 1775 khi Nguyễn
Cư Trinh đánh lui Cao Miên , có chiêu dụ được
một số
người Chăm trước đó chạy loạn
sang trú ngụ trên đất Miên . Ông dân sớ lên Chúa Nguyễn hiến
kế “ tàm thực “ , xin dùng người Chăm để ngăn chặn người
Miên . Chúa Nguyễn
chấp nhận
, ông liền cho cất đồn
ải tại
Tây Ninh , Hồng Ngự và Châu Giang rồi cắt
dân Chăm làm quan trấn
thủ . Họ
có bổn phận
ngoài công việc ngăn giặc , lo khai khẩn ruộng
vườn ở miền
biên ải xa xôi. Có lẽ tháp Chăm Chót Mạt được
người Chăm cũng được thờ cúng và tu bổ vào thời gian này .
Tháp Chót Mạt
được xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng. Nhìn từ xa, đã thấy khu đền tháp Chót Mạt như
một ngọn
bút vươn lên giữa trời.
Khi tiến đến
gần, tháp càng bề thế
hơn với
phần móng tường và đế tháp rộng. Toàn bộ công trình được xây dựng bằng
gạch khổ
lớn và đá phiến, điều
này khiến cho dáng vẻ của
tháp Chót Mạt có nét tương đồng
với các tháp cổ ở
miền Trung.
Phần
đỉnh tháp được xây nhọn dần
lên, nơi cao nhất của
đỉnh tháp đạt chiều
cao 10m. Tinh xảo
hơn là các lớp
gạch xếp
chồng lên nhau được xây dựng khít đến mức
nắng gió thời gian cũng không thể tìm ra lỗ hổng.
Ngoài ra, 4 mặt tháp xoay theo
4 hướng. Mặt vách chính vẫn quay về hướng
Đông. Các vách còn lại
được xây hơi nhô ra ngoài, được
trang trí bằng các hình chạm nổi,
thể hiện
rõ nét nền văn hóa thời bấy
giờ. Tháp xây bằng gạch
có bình diện vuông 5m x 5m
đỉnh tháp cao 10m mỗi chiều
kiến trúc tháp đều bị
hư hại
mất gần
1/2 kiến trúc, hai mặt tường
tháp ở phía Tây và Bắc hầu
như bị
sụp đổ
hoàn toàn, chỉ còn phần móng tường chân đế tháp, các hoa văn trang trí bị nứt
nẻ chỗ
còn chỗ mất. 
Tây Ninh có tất cả 9 xóm người Chăm: Phường 1 thành phố  TÂY NINH , Tân trung A, Tân
trung B, Tân phú, ấp
Chăm Suối dây, Tân Hội, Thạnh
Thọ, ấp
Cây Khế, Hội
thanh. Người Chăm ở Tây Ninh nói hai thứ tiếng,
khi họ nói với nhau thì dùng tiếng Chăm, khi nói với người
Việt thì dùng tiếng Nam, dầu đến
những đứa
con nít cũng nói được
hai thứ tiếng
như vậy.
Cả xóm không có một trường
học nào. Cũng không có thầy riêng để dạy
chữ Chăm cho nhau, hễ cha anh trong nhà nào biết chữ
thì dạy cho con em mà thôi.Người Chăm có hai thứ tôn giáo, hoặc theo đạo Bà la môn, hoặc theo đạo Hồi
.Thày Chàm cũng phàn nàn với
tôi là vì không hiểu
nên người Việt thường
gọi người
Chăm là người Chà Và. Hai
dân tộc đó khác hẳn nhau . Người Chăm hay Chàm là những người
có xuất xứ
từ miền
Trung , vì ảnh hưởng chủa chiến
tranh mà phải lưu lạc
vào đây . Người Việt thấy
họ giao thiệp với
người Mã lai , sang học Đạo
ở Pattani thì lầm tưởng
họ là người Mã lai rồi cứ
gọi như
vậy . Danh xưng Chà Và là do tiếng
Java mà ra . Đồng bào Chăm coi
đó là một danh xưng đầy
khinh miệt , cũng như danh xưng An Nam mà người Hán gọi dân Việt vậy
. Thời Vua Minh Mạng , những người
Chăm theo Lê Văn Khôi chiếm
Phan rang , Phan rí , Phan thiết
chống lại
triều đình ( 1833 ). Cuộc khởi
nghĩa của Lê Văn Khôi thất bại
, một cuộc
thảm sát vô cùng man rợ giành cho người Chăm theo Lê Văn Khôi
đã khiến họ
phải bỏ
xứ ra đi . Một số
chạy sang Cambodge , một số
sống lẩn
lút theo đồng bào Thượng, số lớn
chạy vào Nam . Phong trào khủng bố
đó đã được Vua Thiệu Trị
khoan hồng , xuống một
sắc chỉ
chiêu an năm 1841 , truy phong cho Vua Poklong Kahul . Tuy nhiên đa phần những
người Chăm thời đó đã lưu lạc
tới Kompong Chăm , Châu Đốc và Tây Ninh đã không quay trở lại
. Chỉ có một
nhóm nhỏ chạy
vào rừng núi miền Trung theo người Thượng là lục tục
trở về
Bình thuận , Ninh thuận và sống tới
ngày nay .
Chúng tôi vào Tháp làm lễ
. Thày Chàm ngồi bệt tại
cửa tháp , im lặng với
ánh mắt đượm
buồn. Thày Chàm kể cho tôi nghe một truyền thuyết mà Thày nghe kể lại
: 
“Bấy giờ
Vua Chăm (người chép chuyện không nói là Vua gì, và ở đời
nào) có một người con gái tên là Mứ-gouth. Trong xứ Vua có một người
con trai tên là Kakây, con của
một người
giàu kêu là Mú-sô-Palây. Kakây thấy
Mứ-gouth thì ưng lắm
mà không dám đi nói, vì mình là con dân mà nàng là con Vua. Song Kakây không nhịn được,
bèn tìm cách mà bỏ
ngải cho Mứ-gouth. Mứ-gouth bị ngải,
cách năm sáu ngày thì trốn
ra khỏi cung Vua mà theo Kakây. Vua biết con gái mình đã phải lòng Kakây, không tài nào gỡ ra cho được, bèn kêu Kakây đến mà gả Mứ-gouth
cho.
Khi Kakây lấy được công chúa rồi thì ở lại
triều giúp Vua về sự
đánh giặc. Nguyên vì Kakây có tài bói, lúc
nào có việc trận mạc
thì y giở lịch
chọn ngày xuất hành cho nên Vua đánh trận nào đều thắng
trận nấy.
Vì thấy Kakây có tài như vậy,
Vua sợ dễ
y rồi sẽ
cướp ngôi mình đi, nên có
ý muốn giết
Kakây. Kakây biết
ý Vua thì than thở
riêng với vợ
mình. Công chúa đem lời
tâu cùng Vua, thì Vua lại
chối rằng
không có bụng ấy. Vua thề trước
mặt bá quan rằng nếu
mình có ý giết Kakây thì trời sẽ
làm cho mình mất ngôi đi.
Thế nhưng
về sau Vua quả lập
thế mà giết Kakây thật. Một
hôm, Vua nhóm các quan tại
sân chầu, rồi
giàn năm con voi ra, bảo
Kakây nhảy lên lưng voi cỡi cho Vua xem. Kakây vâng lời thì Vua ra khẩu hiệu
cho voi rằng Mà inh tron
pók, tức thì năm con voi xúm lại mà xé Kakây chết tươi.
Sau khi Kakây
chết, Vua đi cưới Lê công chúa, là con
gái của vua An Nam. Lê công chúa xinh đẹp lắm,
Vua say mê vì nàng, không lo đến
việc quốc
chánh và binh cơ
nữa. Vua ỷ rằng
trong nước duy Kakây có tài, nay
chết rồi,
đã hết lo ; còn mặt ngoài thì Vua đã cưới con gái Vua An Nam,
hai nước đã thông hôn với nhau thì cũng như một
nước, từ rày sẽ hưởng
cuộc hòa bình, không còn lo gì giặc giã nữa. Các quan tại triều
cũng có đồng một ý kiến như
Vua vậy.
Trước cung Vua, có một cây trai lớn và linh lắm, người
ta nói rằng Vua Chăm cường thạnh là nhờ thần
của cây trai đó. Lê công chúa bèn giả đò đau, mời năm thầy mười
bà đến bói, bà đều biểu
nói rằng tại
cây trai đó có ma, nên bắt
bà phải đau. Bà bèn xin Vua phải sức
đốn cây trai ấy đi. Vua nghe lời, sai lính đốn cây trai. Lính giơ búa lên thì búa dính trên vai, không hạ
xuống được.
Vua nổi giận,
tự cầm
búa mà đốn lấy,
vừa chặt
ba búa thì cây trai ngả
xuống và chảy máu ra như suối.
Lê công chúa liền
lành bịnh.
Lê công chúa gởi thơ cho cha mình là Vua An Nam, nói rằng cây trai ấy đã hạ rồi,
thì Vua An Nam kéo binh vào đánh Vua Chàm. Vua Chàm sai rã cây trai ấy làm ván đóng thuyền để
đi đánh giặc. Lạ cho cái thuyền ấy,
không chèo không buồm
mà cứ việc
đi, vả lại
đi theo ý Vua muốn,
Vua chỉ đi đâu thì thuyền đi đó. Mấy trận
đầu Vua An Nam phải thua luôn.
Về sau, Vua An Nam sai lính đến đóng cọc trong biển đó. Đến chừng
đánh một trận
nữa, thuyền Vua Chàm mắc lấy
cọc không tới lui được, Vua giận, lấy
búa bửa thuyền, thuyền chìm, Vua thoát thân lên bờ, khi lên bờ rồi,
Vua còn đánh với quân An Nam mấy trận
nữa, mà đều bị
thua luôn, quan quân chạy
một đường,
còn Vua chạy một đường.
Vua Chăm chạy, mà Vua An Nam
cứ đuổi
theo. Sau, cùng đường,
Vua Chăm sa xuống giếng, tức
thì có những con nhện giăng tơ lấp
đầy miệng
giếng. Vua An Nam kéo binh đến đó, thấy không có đường chạy nữa,
mà sai lính tìm khắp
cũng không ra dấu
tích Vua Chăm, toan rút quân về.
Thình lình nghe con thằn
lằn kêu tắc tắc
trên miệng giếng,
Vua An Nam sai lính kiếm
một lần
nữa cũng không thấy. Tính việc bỏ
đi, lại nghe thằn lằn
kêu tắc tắc,
Vua bèn lấy gươm khều váng nhện trên miệng giếng
thì thấy Vua Chăm hiện ra. Vua An Nam bèn sai chặt đầu
Vua Chăm đem theo mình, còn cái thân thì bỏ
lại đó. Vì sự tích đó, cho đến bây giờ, người
Chăm vẫn coi con nhện là ơn
và coi con thằn lằn
là thù.
Khi vua Chăm bị chém, cái đầu lìa khỏi cái thân, thì cái đầu có dặn với
cái thân rằng: hãy đợi đó bảy ngày thì đầu sẽ
trở lại
hiệp với
thân. Mới được
ba ngày, song cái thân ngỡ
là bảy ngày, sao cái đầu không thấy trở
lại, hoặc
giả đi lạc
rồi sao, bèn đứng dậy
đi tìm cái đầu. Đi được một đỗi,
gặp một
lũ chăn trâu lêu lêu mà nói : coi bay cái người
không đầu đi đâu đó kìa! Cái thân liền ngã xuống tại
đó. Tới bảy
ngày, cái đầu quả trở
lại chỗ
cũ, tìm cái thân không gặp,
cũng rơi xuống
nằm đó luôn.
Lúc đó, Vua An Nam bắt
voi của Vua Chăm nhiều lắm,
và vào cung Vua khuân cả
vàng bạc chở
về ngoài Bắc. Còn dân Chàm thì bị giết,
lớp thì chạy lớp
tan lạc hết.
Con trai của Vua Chăm là Bô
Chơn và Bô Ti-cây thì chạy
vào ở Tây Ninh, bấy giờ
kêu là Rồn-đuôm-rây, xóm ở, kêu là Paóch-ruồm.
Bô Ti-cây có vợ tên là
Nayposoth lịch sự lắm,
nghe thấu tai Vua Xiêm La. Sau khi ở Tây Ninh được ba bốn năm, Vua Xiêm kéo binh đến đánh để bắt
lấy nàng Nayposoth. Hai vợ chồng
Bô Ti-cây cứ chạy chỗ
nầy chỗ
kia mà trốn. Vua Xiêm bắt không được cũng kéo quân về. Sau lại, nhân trong lúc Bô Ti-cây đi vắng, Nayposoth ở nhà mở hội
cúng tế đương
đờn
hát vui chơi, thình lình Vua Xiêm kéo quân đến
vây bắt nàng, chở lên voi đi qua sông Tầm-long, bây giờ kêu là Kampong Chamalông. Bô
Ti-cây trở về thấy
cơ sự
như vậy,
liền theo kịp lội
qua sông, chém voi ngựa
quân lính Xiêm chết
nhiều lắm.
Còn chừng bảy
con voi nữa thì tới voi của Nayposoth cỡi, mà Bô Ti-cây đã mệt mỏi
quá thể rồi,
nàng thấy chồng
mình như vậy,
lấy làm tội nghiệp bèn bẻ nút áo vàng của mình đưa cho vua Xiêm bắn chết
Bô Ti-cây. Vua Xiêm bèn đem Nayposoth về
bên Xiêm.
Cái trận mà quân Xiêm qua bắt Nayposoth đó thì dân Chăm tổn hại
nhiều lắm.
Những con nít chạy qua cầu bị
người lớn lấn
té xuống sông chết không biết bao nhiêu, song quân Xiêm không hề giết
ai.
Hòn núi ở Tây Ninh mà bây giờ kêu là núi Chơn Bà Đen cũng gốc
từ trận
ấy: Vì trong trận ấy,
quân Xiêm thường nói với nhau rằng: "Phum chờn mê đen", nghĩa là: Xiêm theo
kịp bắt
được Nayposoth gần chơn
núi.” (
putrachampa.blogspot.com).

Đêm đó , chúng tôi ngủ
nhờ ở
nhà một người
bạn thày Chàm ở gần
cửa số
2 chợ Long Hoa. Chợ Long Hoa có nhà lồng hình chữ thập
trên một lô đất hình vuông, chung quanh có 8 cửa, hướng
ra tám con đường, với ý nghĩa là: Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng,
biến Bát Quái. Từ trên phi cơ nhìn xuống
khu chợ Long Hoa, chúng ta sẽ thấy
giống như
một cái Bát Quái Đồ. Theo tư tưởng
của đạo
Cao Đài thì các chơn
hồn trước
khi về cõi Thần tiên phải chung qua Lầu Bát Quái để trừ
đi những oan trái và trược khí và dự Đại
hội Long Hoa để xét xem công đức mà phong phẩm Thần
tiên.Do số tín đồ Cao Đài từ khắp
các tỉnh đổ
dồn về
vùng Thánh Địa Cao Đài lập nghiệp càng ngày càng đông, nên ngày 12
tháng 11 năm Nhâm Thìn (dl 28 tháng 12 năm 1952) Hộ pháp Phạm Công Tắc cho khởi công xây dựng chợ
Long Hoa theo vị
trí và bản vẽ
của ông để tín đồ Cao Đài có nơi buôn bán làm ăn. Ý nghĩa danh từ
Long Hoa là chỉ thời kỳ khai mở Hội
Long Hoa, do Đức Di Lặc Vương
làm Chủ khảo,
là kỳ thi phán xét cuối
cùng trong Kỳ Hạ
Ngươn để
tuyển phong Phật vị.
 Các cửa chính chợ Long Hoa Tây Ninh gồm: Cửa
Một phía Bắc chạy
về hướng
Tòa Thánh, cửa Ba phía Tây chạy về
hướng chùa Gò Kén – sông
Tây Ninh, cửa Năm phía Nam
chạy về
vùng Giang Tân hướng
về Sài Gòn, cửa Bảy
phía Đông chạy về Trí Huệ Cung. Tám cửa mang ý nghĩa Bát Quái Đồ Thiên.
 Lúc đi qua lầu
Bát quái gần cửa số
2 Tòa Thánh , tôi thấy
thày Chàm tự nhiên ứa nước
mắt , ông cố giấu
mà không nổi. Hình ảnh vùng đất đầy
đau thương này có lẽ còn theo ông đi đến những
ngày cuối đời
. Tội bỗng
nhớ đến
câu thơ của
Chế Lan Viên :
Nhớ
bản sương giăng,
nhớ
đèo mây phủ 
Nơi
nào
qua, lòng
lại chẳng yêu thương? 
Khi ta ở,
chi là nơi
đất ở 
Khi ta đi, đất
đã hoá tâm hồn!
Đêm hôm đó, sau khi cơm
nước xong , hai thày trò
giăng hai cánh võng ở
ngoài hiên nhà nằm
tâm sự . Thày Chàm kể cho tôi nghe về xuất
xứ của
môn Võ Thần Thất sơn
Thần quyền
mà tôi sắp học
.
Theo như Thày Chàm cho biết
về nguồn
gốc của
võ phái này : Từ
thuở mở
đất tiến
về phương
Nam, do chống chọi với
thiên nhiên, thú dữ
và cướp phỉ, người
Việt nơi
đây đã sáng lập nhiều
môn phái võ mang tính chiến
đấu cao như Tân Khánh Bà Trà, Gò Công, Thất
Sơn võ đạo….
Do ảnh hưởng
phong trào kháng Pháp, nhiều
chí sỹ khóc hận nước
mất nhà tan đã lánh vào rừng sâu núi thẳm rèn binh chờ cơ
hội cứu
nước nên khắp miền
Nam thuở trước,
vùng nào cũng có một
hệ phái ra đời. Ở
vùng Thất Sơn
đã có hàng chục hệ
phái xuất hiện.
Năm 1859, Pháp bắt
đầu đánh chiếm Nam kỳ Lục tỉnh
(Nam bộ). Một
giai đoạn bi thảm bắt
đầu trên vùng đất mới
khẩn hoang chưa lâu lắm.
Triều đình nhà Nguyễn bất
lực trước
sự xâm lăng ngang ngược của thực
dân Pháp đã lên tục
nhượng bộ cắt
đất, bất
lực ngồi
nhìn súng đạn thực dân thôn tính miền Nam, sau đó thôn tính và đặt ách đô hộ lên toàn nước Việt. Nhiều bậc
trung quân ái quốc
tức giận
kháng mệnh triều đình. Nhiều chí sỹ tựu
quân kháng chiến cứu nước.
Vùng Bảy Núi, tức Thất
Sơn (hiện
nay thuộc tỉnh
An Giang) trở thành căn cứ địa
của các lực lượng
nghĩa quân Nam Bộ.
Thật ra, Thất Sơn
có đến
10 ngọn núi nhưng thời
vua Tự Đức
chỉ đặt
tên cho 7 ngọn tượng trưng cho 7 linh huyệt gồm:
Anh Vũ Sơn (Núi Két), Thiên Cẩm
Sơn (Núi Cấm),
Ngũ Hồ Sơn
(Núi Dài), Liên Hoa Sơn (Núi Tượng),
Thủy Đài Sơn (Núi Nước),
Ngoạ Long Sơn (Núi Dài Văn Liên), Phụng
Hoàng Sơn (Núi Tô). Theo cụ
Hồ Biểu
Chánh qua tác phẩm
Thất sơn
huyền bí  thì Thất sơn
là các núi : Trà sư, núi Két ,núi Dài ,núi Tượng
, núi Bà đội om , núi Tô và
núi Cấm . Còn theo Đại nam nhất thống
chí thì Thất sơn bao gồm : Núi Tượng , núi Tô , núi Ốc Nhâm , núi Nam Vi , núi Châm Biệt , núi Nhân Hòa.
Nhìn tổng quát thì các núi ở miền
này bắt đầu
từ núi Sam ăn mãi đến tận
núi Vọng Thê , núi Sập và các hòn ở tận
Hà Tiên . Nhưng về sự
mật thiết
của địa
lý từng vùng thì Thất sơn
chỉ bao gồm các núi nằm trọn
vẹn trong hai quận Tri Tôn và Tịnh biên . Theo các cụ ngày xưa nói lại
: vùng Thất sơn nằm
trong gianh giới : “ Tiền tam giang – Hậu thất
lĩnh. Vậy mới
có câu :
“ Trước
ba sông thêm rạng
chí tang bồng
,
Sau bảy
núi chẳng
nao lòng anh kiệt
“
Do địa điểm
hiểm trở,
dãy nối dãy, ngọn liền
ngọn, rừng
rậm hoang vu nên vùng núi này có nhiều loại
thực vật,
động vật
cực kỳ bí hiểm. Cọp
beo, rắn rết
cùng những loại
cây ăn thịt (dân gian gọi là ngải) đã khiến nhiều
người bỏ mạng
mất xác khi cố tình thâm nhập. Trước
sức mạnh
vũ khí hiện đại của
quân Pháp, lực lượng nghĩa quân chỉ có binh khí thô sơ và lòng quả
cảm. Những
người chỉ huy phải sử
dụng đến
“vũ khí tâm linh”. Võ phái Thất
Sơn thần
quyền ra đời từ
đó. Để giữ
bí mật nơi
trú ẩn, nghĩa sỹ kháng chiến đã lợi dụng
sự kỳ bí của tự
nhiên, lợi dụng
địa thế
hoang vu hiểm trở của
rừng rậm,
núi cao thêu dệt nên những câu chuyện linh thiêng nhằm để
tiếp thêm sức mạnh
cho binh sỹ và uy hiếp kẻ
thù. Tiêu biểu nhất trong các Đạo giáo ra đời trong thời kỳ này là Đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương của Phật
thày Tây An – Đoàn Minh Huyên. 
“Đoàn Minh Huyên (14 tháng 11 năm 1807 - 10 tháng 9 năm 1856), còn có tên là
Đoàn Văn Huyên, đạo
hiệu: Giác Linh, được tín đồ gọi
tôn kính là Phật Thầy Tây An. Ngoài vai trò là người sáng lập giáo phái (Bửu Sơn
Kỳ Hương) bản địa
đầu tiên ở An Giang , ông còn là một nhà yêu nước, nhà dinh điền đã có công khai hoang nhiều vùng đất ở
Nam Bộ (Việt
Nam).
Đoàn Minh Huyên là người
ở vùng Cái Tàu Thượng, thuộc làng Tòng Sơn, tổng
An Thạnh, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang; đến thời
Pháp thuộc đổi
thành làng Tòng Sơn
và sau đó là làng Mỹ An Hưng
thuộc tổng
An Thạnh Thượng,
quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc xã Mỹ An Hưng
A, huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng
Tháp).
Năm 1849, ở Nam Kỳ, xảy ra vụ mất
mùa và đại dịch
(kéo dài đến 1850), đã làm
nhân dân lâm vào cảnh
cùng cực, khổ
đau và chết chóc. Trong
hoàn cảnh ấy,
ông Đoàn Minh Huyên từ
Tòng Sơn vào Trà Bư
(nay thuộc ấp
An Thái, xã Hội An, huyện Chợ
Mới, tỉnh
An Giang), rồi đến vùng Kiến Thạnh
(xưa thuộc
làng Long Kiến; nay thuộc xã Long Giang, huyện Chợ
Mới, tỉnh
An Giang), cư ngụ ở
Cốc ông đạo Kiến,
trổ tài trị bệnh
cho dân. Từ chỗ chữa
trị bệnh
có kết quả,
ông dìu dắt được nhiều bệnh
nhân và người thân của họ
nghe theo những điều dạy
khuyên của ông.
Thấy người
tin theo ngày một
đông, nên ngay năm ấy
(1849), ông đã sáng lập
ra đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương, với tôn chỉ và phương pháp hành đạo
rất đơn
giản.
Nghe ông chữa bệnh bằng
nước cúng (nước lã), bông cúng,...đồng thời
rao giảng đạo,
quan tỉnh An Giang nghi ngờ ông là gian đạo sĩ, hoạt động
chính trị nên bắt giam, nhưng xét không có bằng
chứng phải
thả tự
do cho ông. Song ông buộc
phải quy y theo đạo Phật
(phái Lâm Tế) và tu tại chùa Tây An, dưới chân núi Sam (Châu Đốc). Từ
đó, ông được người dân tin tưởng gọi tôn kính là Phật Thầy
Tây An.
Mặc dù bị chỉ
định cư
trú, song ông vẫn thường
đi lại khắp
miền sông Hậu, phổ
biến giáo lý Tứ Ân, đồng thời
vận động
dân nghèo khai hoang, dần
hình thành 4 trung tâm dinh điền
lớn, đó là Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp), Thới Sơn
(Tịnh Biên), Láng Linh và Cái Dầu (đều
thuộc Châu Phú)...
Phật Thầy
Tây An viên tịch ngày 10 tháng
9 năm 1856, lúc 49 tuổi.
Hiện mộ
ông ở phía sau chùa Tây An (Châu Đốc), không đắp nấm
theo lời căn dặn của
ông. Ông có nhiều
đệ tử
giỏi, như
Đức
Cố Quản
(Trần Văn Thành), Tăng Chủ (Bùi Đình Thân), Đạo Xuyến
(Nguyễn Văn Xuyến), Đạo
Lập (Phạm
Thái Chung), Đạo Thắng (Nguyễn Văn Thắng),v.v...
Theo truyền thuyết của
giáo phái này, thì Bửu
Sơn (núi báu) là Thất
Sơn, mà linh thiêng nhất
là núi Cấm. Kỳ hương tức là mùi hương lạ. Hội
Long Hoa sau thời
Mạt pháp sẽ được
Phật Di-lặc thành lập ở
đó để đón nhận những
ai biết tu hiền.
Trước thực trạng
nghèo đói và bệnh tật triền
miên, nghe nói hội
Long Hoa giống như cõi Tiên tại
thế, mà việc hành đạo lại
rất dễ,
nên người tin theo ngày càng
đông.
Người đến quy y sẽ được
Đoàn Minh Huyên cấp
cho một tấm
"lòng phái" (mảnh
giấy màu vàng có ghi bốn chữ
"Bửu Sơn
kỳ Hương" màu son), được
truyền dạy
giáo lý "học
Phật- tu Nhân", tức là noi theo giáo lý Đức Phật
mà tu sửa con người, tích cực thực
hành thuyết "Tứ ân (ơn)",
đó là: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước,
Ân Tam bảo và Ân đồng bào nhân loại.
Về việc
hành đạo, tuy lấy đạo
Phật làm gốc, nhưng
tín đồ
đạo này không cần thờ
tượng Phật (trên ngôi thờ Tam bảo chỉ
cần thờ
tấm trần
điều màu đỏ), không cần phải
ly gia cắt ái, không cần ăn chay, cạo râu tóc, gõ mõ tụng kinh,...và không cần phải
dâng cúng những lễ vật
tốn kém (bông hoa, nước lã là đủ). Trong những lời
sấm truyền của
Phật Thầy
để lại
cho đệ tử
có câu: 
Chừng
nào gốc
mộc nên chồi ,
Ta vưng
sắc lệnh tái hồi trần gian.
 Hay câu: 
Nay già đã hết
già hóa trẻ,
 Nên giữa
đông bổng
lại có sông .
Và một đều
Phật Thầy
Tây An có ba ngấn
cổ sau này Đức Huỳnh Phú Sổ ra đời
cũng có ba ngấn cổ và Ngài viết ra quyển 2 sấm
giảng nhắc
lại bút tích Phật Thầy
nên hầu hết
tín đồ Bửu
Sơn Kỳ hương hay Phật giáo Hòa Hảo đều
nhìn nhận.
Nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có Sơn Nam cho rằng đây là lối tu theo thuyết "vô vi", tức là không chú trọng đến
hình thức, không dụng tâm bày đặt ra cái này cái khác .
Sau này, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và đạo Hòa Hảo chịu
ảnh hưởng
sâu sắc các yếu lý trên . Tại nơi
trại ruộng
làng Thới Sơn
Phật Thầy
có truyền lại
một bài sấm ngữ:
Bửu
Ngọc
Quân Minh Thiên Việt
Nguyên
Sơn
Trung Sư
Mạng Địa Nam Tiền
Kỳ Niên Trạng
Tái Tân Phục
Quốc
Hương
Xuất
Trình Sanh Tạo
Nghiệp
Yên.
Bửu
Sơn Kỳ Hương
Ngọc
Trung Niên Xuất
Quân Sư
Trạng
Trình
Minh Mạng
Tái Sanh
Thiên Địa
Tân Tạo
Việt
Nam Phục
Nghiệp
Nguyên Tiền
Quốc
Yên.
Phật Thầy
Tây An là một nhà yêu nước ẩn dưới
chiếc áo nhà tu. Ông vừa trị
bệnh cứu
người, vừa quy tụ nông dân nghèo khai hoang, vừa phổ
biến "Tứ ân", mà trong đó "Ân đất nước"
rất được
chú trọng. Điểm đáng lưu ý nữa,
đó là những "trại ruộng"
mà ông lập ra chỉ là hình thức, thực
chất đấy
là căn cứ tập
hợp nông dân chống lại
chính sách cai trị
hà khắc của
nhà Nguyễn. Sau này, khi thực dân Pháp đến xâm lược, thì những nơi
ấy trở
thành những căn cứ chống
ngoại xâm, nhiều tín đồ của
ông trở thành nghĩa quân (để đền
ơn đất
nước), mà cuộc khởi
nghĩa Bảy Thưa
(1867 -1873) do Trần
Văn Thành (đại đệ tử
của Phật
Thầy Tây An) phát động, là một minh chứng .” (https://vi.wikipedia.org).
Phật Thầy
Tây An lập ra 4 trung tâm dinh điền lớn,
đó là Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp), Thới Sơn
(Tịnh Biên), Láng Linh và Cái Dầu (đều
thuộc Châu Phú)...Mỗi trung tâm là do một đại
đệ tử
phụ trách, hình thành những trại
ruộng , quy tập nông dân khai hoang làm ruộng , hướng dẫn các tín đồ tu học
và tập luyện
võ thuật .
• Tại Trà Bông , Cần Lố,
Rạch Ông Bường ( Đồng Tháp mười ) được giao cho ông Đạo Ngoạn
.
• Ở Cái Dầu do ông Đạo Xuyến
phụ trách .
• Ở núi Két do ông Đình Tây phụ trách .
• Ở Láng Linh do quản cơ
Trần Văn Thành phụ trách .
Phật Thầy
Tây An qua đời vào năm 1856.
Mộ của
Ông hiện còn tại chân núi Sam ( Châu Đốc )và tại Tòng Sơn ( nay là xã Mỹ An Hưng
A, Huyện Lấp
Vồ - Đồng
Tháp ) , nơi phát tích Đạo
Bửu Sơn
Kỳ hương , nhân dân đã xây đền
thờ tưởng
niệm Ông .Trại ruộng
Bửu Hương
Các ở Láng Linh trở thành căn cứ chống
Pháp : Láng Linh – Bảy
Thưa do Trần Văn Thành , một đại
đệ tử
của Phật
Thầy Tây An lãnh đạo .
Xin theo dõi tiếp
bài 24. dienbatn.
_______________
Nguồn:
sưu tầm





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét