CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 28.
NHỮNG
NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ
phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN
MÔN. Đó là những tháng ngày vô
cùng vất vả,
trải nghiêm đủ Hỉ-
Nộ- Ái - Ố của
dienbatn . Cũng đã qua từ
lâu rồi , xin kể lại
để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ
và Đời sống
.
Trên dải đất
phương Nam , từ khi Chúa Nguyễn Hoàng nghe theo câu " Hoành
Sơn nhất
đái - Vạn Đại
dung thân " của
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm, trải qua các triều của
các Vua Nguyễn, người dân Nam mang trong
mình dòng máu Lạc
Hồng, mang theo hồn Thiêng của sông núi , mang theo những kiến
thức Huyền
môn của miền
Bắc và Trung , đấu tranh liên lục mở
mang bờ cõi . " Từ thủa
mang gươm đi dựng nước
- Ngàn năm thương nhớ đất
Thăng Long " ( Huỳnh Văn Nghệ
). Đất Việt
Nam địa linh , nhân kiệt mang hình chữ S tạo
nên một bức
địa đồ
có hai mảng âm - dương kết hợp
kỳ bí , là một Thánh địa Long tàng hổ phục.
Nơi đây đã , đang và sẽ
sinh ra biết bao nhiêu nhân
tài , là điểm tập kết
và hội tụ
của rất
nhiều hệ
phái Huyền môn của nhân loại qua các dòng chảy của
văn hóa, giao thương,
truyền Đạo....
Huyền
môn của Trung Hoa đã tập trung ở miền
Bắc từ
hàng ngàn năm trước
. Các phái Huyền môn Trung Hoa
như : Lỗ
Ban, Mao Sơn , Chúc Do Khoa, Lỗ Ban Thái Thượng , Lỗ Ban sát Thần phù , Lỗ Ban 12 cửa, Lỗ
Ban Cửu Khiếu,
Lỗ Ban độc trùng ( Từ Vân Nam truyền vào ) , Lỗ Ban Cửu Thiên, Lỗ Ban Ngũ hành , Phù thủy....
Các dân tộc
thiểu số
miền núi phía bắc Việt
Nam như Thái , HMông, Dao, Mường,
Mán, Khơ Mú, Rục,
....đều có những Thày Mo, Thày Tào nắm rất
chắc các thuật Huyền
môn như Nèm, Chài, Thư
, Thuốc, Trù, Ếm ...
Các phái Huyền môn phát xuất từ
phương Bắc và các dân tộc thiểu
số miền
bắc Việt
Nam, ảnh hưởng
của Phật
giáo Đại thừa,
của các câu chú Đà La ni bằng chữ
Phạn hay Tây tạng, các hình ảnh Phật,
các chủng tử...được các nhà Huyền môn chế tác kết hợp
với Đạo
giáo Trung hoa thành ra trong Huyền
môn miền Bắc
, thường sử dụng
những câu chú là chữ Hán , kết hợp
với tiếng
địa phương
của mình, các lá Bùa bao giờ cũng kèm theo các ký tự hán ngữ theo kiểu chữ
Bùa.
Trong đoàn quân Nam tiến
của Chúa Nguyễn Hoàng ngày xưa, không thiếu
những vị
Pháp sư, Phù thủy,
Đông y , mang trong mình những
thuật Huyền
môn của miền
Bắc, khi vào Nam đã tiếp thu những tinh hoa Huyền môn từ các dân tộc Chăm , Ba Na, Ê Đê, Vân Kiều , Cờ
Ho , Cơ Tu , Ra rai , KhMer .... Khi vào tới Nam bộ , lại
giao thoa với những phái Huyền môn của Phật
giáo Nam tông ( Therevada ) . Những
phái Huyền môn của Phật
giáo Nam tông có thể
du nhập vào Nam bộ qua vùng rừng núi giáp ranh với Việt
Nam như Lào, Campuchia, có thể đi theo thương thuyền từ
Thái Lan, In đô nê chia, Philipin, Singapo... Các nước theo Phật giáo Nam tông trong Huyền môn thường hay sử dụng
chú ngữ PaLi và Bùa Điển ( Không có các Hán tự ). Ta có thể kể
đến những
môn phái của Huyền môn Nam tông như : Lục
cà Tha, Lục Giây, Mẹ Sanh, Mẹ Lục,
Mẹ Đất,
Mẹ Sroc , Gồng Trà Kha, Năm Ông , Ngũ công Vương Phật, Mẹ
Ngũ hành , Phật
Đen, Tổ Tóc Đanh, Tổ Xì Bích , Tổ vắt
Khăn .....
Lại có những môn phái tại vùng Châu Giang là người Chăm có chú thuật bằng
kinh Cô Ran cổ , dùng luyện Ngải,
luyện thư
, ếm. Một
số môn phái còn tiếp thu những bí thuật từ
PhiLípPin , In đô nê chia thờ
Mẹ Đất
, Thần Rừng,
Thần Núi hay thờ những
vị nửa
người , nửa thú , kết hợp
cả động
thực vật
thành một sức
mạnh kỳ bí như Ắp
Pla kết là thuật kết
hợp giữa
tinh tre gai và Thần
Đất , Bo gẹt là kết hợp
giữa râu con cọp và măng rừng tạo
nên những liều
thuốc cực
độc, Chiêm Niền là thuật kết
hợp giữa
gai cá Ngạnh và lá rừng.
Ta hãy so sánh hai lá Bùa của
nam Tông và Bắc tông sẽ thấy
rất rõ nguồn gốc
của chúng.
1/ BÙA BẮC TÔNG.
Bài Chú Chúc Quan Phù Sứ
Triệu Thỉnh Thượng
Giới Thiên Tiên Trực Phù Sứ, Trung Giới Địa
Tiên Trục Phù Sứ, Hạ
Giới Ngoại
Tiên Trực Phù Sứ, Kim Thời Phụng
Sự Trực
Phù Sứ, Thiên Lý Tầm Phù Danh Hương Thỉnh, Phi Vân Tẩu Vụ
Ngoại Đàn Tiên, Đệ Tử
Tâm Hương Thông Tam Giới, Thông Vấn Tam Giới Trực
Phù Thần, Khoái Đổ Cửu
Năng Tụ Thủ,
Cá Cá Hàm Châu, Đồng
Đầu Thiết Cảnh,
Bất Úy Cường Ngư, Song Thủ
Mỹ Ngọc,
Mãn Phúc Văn Chương,
Kinh Thiên Vĩ Địa,
Tả Hữu Diện Khổng, Nhật Nguyệt Tranh Quang, Tả Cước
Kính Thiên, Phi Vân Tùy Chi Hữu
Tước Kính Thiên Tẩu Lộ
Tùy Chi, Thủ Chấp Khai Văn Kiêm Đồng Phù Sứ, Túc Vãng Tiên Cung, Cảm Thỉnh
Thần Tiên, Phùng Thánh Túc Yêu, Ngộ Tà Tứ
Sát, Cao Tại Thanh Thiên
Chi Thượng, Thâm Nhiệm Tàng Hải Chi Trung, Cận Tại
Kỉ Tịch
Chi Tiên, Viên Tại
Cửu Châu Chi Ngoại.
2/ BÙA NAM TÔNG.
BA ÔNG TỔ LỚN NHẤT.
• Ề hế
tế dá mặc
mặc.
• Ề hế
thế dái mặc mặc.
• Ề hế
Bi li mặc mặc.
Bùa và chú Nam tông thường
đơn giản
và hiệu quả
hơn.
Tới đây chúng ta có thể kết
luận rằng
: Phái Thất sơn Thần
quyền là một môn phái Võ - Đạo của
Việt Nam , xuất phát từ miền
Thất Sơn
- An Giang , được các vị Thày của các tông phái Phật giáo miền Nam ( Bửu Sơn
Kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo...) tiếp thu tinh hoa của nhân loại , kết
hợp với
các hệ phái Huyền môn Nam tông bắt nguồn
từ các nước Thái Lan, Lào, Cam Pu
Chia, Mã lai, Phi Lip Pin, In đô ne chia ....tạo
thành một phái Võ - Đạo mang đậm bản
sắc địa
phương. Phái Thất sơn
Thần quyền
là một môn phái Võ - Đạo của
Việt Nam, hoàn toàn không phải là của Trung Quốc.
CÁC TRUYỀN THUYẾT VỀ
NGUỒN GỐC
CỦA THẤT
SƠN THẦN
QUYỀN.
Tư liệu
1 :
" Đi tìm dấu
vết võ học Thất
Sơn: Thần
quyền
Thất Sơn
thần quyền
là một trong những võ phái ra đời rất
sớm ở
vùng Thất Sơn
(Bảy Núi, An Giang ). Ngoài quyền cước
thông thường, người học võ còn luyện “thần
quyền”.
Võ sư sáng lập
Theo một vài ghi chép, Thất Sơn thần
quyền (TSTQ) do võ sư Trần
Ngọc Lộ,
từng là Bí thư Đại
Việt cách mạng quận
bộ Phú Thứ (Huế),
sáng lập nên. Tuy là người gốc Huế,
nhưng Trần
Ngọc Lộ
là một trong “thập nhị
hiền thủ”
- đệ tử
dưới trướng của Phật
thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Vốn là người giỏi võ, lại đức
độ, võ sư Trần
Ngọc Lộ
không thể lập
giáo phái vì sợ mang tiếng phản
thầy, phản
giáo, nên ông lập
võ đạo. Để
ghi nhớ công ơn của
thầy đã truyền dạy
và khoảng thời
gian ẩn cư
tại vùng Bảy Núi, võ sư Trần
Ngọc Lộ
đã lấy tên TSTQ đặt cho võ phái của mình.
Di ảnh
của võ sư Hoàng
Bá
- truyền
nhân cuối
cùng của
Thất
Sơn thần quyền ở An Giang - Ảnh do gia đình cung cấp
Đệ
tử TSTQ nhập môn ngoài học quyền
cước còn được học cả
đạo. Võ là để rèn luyện thân thể, sức
khỏe dẻo
dai, bảo vệ
chính nghĩa, giúp đỡ
kẻ yếu.
Còn đạo là đạo đức,
đạo lý sống ở
đời. Thêm vào đó, đệ tử
TSTQ còn có thêm niềm
tin rằng nếu
ra sức luyện
tập, đến
một lúc nào đó có thể luyện
thành “thần quyền”, có sức mạnh
siêu phàm có thể
“hô phong, hoán vũ”, có thể
1 đánh 10, thậm chí vài chục người.
Chính đức tin này đã thu hút rất nhiều
người tìm đến học
TSTQ. Tuy nhiên, không phải
đệ tử
nào cũng được học “thần
quyền”. Tương
truyền, chỉ
có người được chọn kế
thừa Trưởng
môn mới được
chân truyền “thần quyền”
để trấn
môn.
Cho đến bây giờ, người
dân vùng Bảy Núi vẫn còn truyền miệng
câu chuyện về
một đạo
sĩ già có phàm danh “ông Đạo
Ngựa”. Do hành tung ông rất bí ẩn
nên không ai biết
chính xác danh tính của
ông, cũng không biết
nơi ông sinh sống.
Chỉ biết
rằng mỗi
tháng một lần,
ông cưỡi ngựa xuống
chân núi Sam (Châu Đốc)
để đổi
gạo. Một
lần chứng
kiến cảnh
dân nghèo bị cướp, ông ra tay can thiệp. Nhìn thấy một
ông lão gầy nhom, râu tóc
bạc phơ,
bọn cướp
phá lên cười. Thế nhưng
khi bọn chúng vung dao xông vào vây chém
thì ông lão gầy guộc trở
nên hết sức
nhanh nhẹn. Vừa
tránh những đường
dao chí mạng, tay nắm dây cương ngựa, chân liên tục tung cước khiến cả
bọn té sấp dưới
đường. Bọn cướp
tháo chạy, ông thoắt lên lưng ngựa,
ngược dốc núi trở về
và biến mất
giữa rừng
già. Về sau, người ta mới biết
ông chính là một trong những đệ
tử chân truyền của
TSTQ đã mai danh ẩn
tích, tu tại một hang động bí ẩn ở
núi Sam. Nhưng cũng từ đó ông “Đạo Ngựa”
không còn xuất hiện và không ai tìm được ông nữa.
Võ sư Phan Thanh Thuận, đệ
tử cuối
cùng của võ sư Hoàng Bá - Ảnh
do nhân vật cung cấp
Truyền
nhân cuối
cùng .
Chúng tôi cất công lần theo dấu vết
truyền thuyết trên khắp vùng Bảy Núi trong một thời
gian dài, nhưng vẫn không gặp được
truyền nhân nào của TSTQ. Trong khi lân la trò chuyện với
các võ sư thuộc
Trung tâm huấn luyện TDTT tỉnh An Giang, chúng tôi được biết có một vị
võ sư già trước
đây là đệ tử
của phái Thất Sơn.
Theo chỉ dẫn,
chúng tôi tìm đến
tận nhà thì tiếc là vị võ sư
ấy đã qua đời ở
tuổi 71 (năm 2010). Đó chính là võ sư Hoàng Bá (tên thật
Trần Kim Truyền), nhà ở cầu
Tầm Bót, P.Mỹ Phước,
TP.Long Xuyên. Ông chính là đệ
tử chân truyền cuối
cùng của võ phái TSTQ ở An Giang.
Võ sư Hoàng Bá vốn
rất nổi
tiếng trong giới võ thuật miền
Nam từ những
năm trước 1975. Ông Bảy Sang (85 tuổi, chú ruột võ sư Hoàng Bá) cho biết
dòng họ ông không có truyền thống
võ đạo. “Thuở nhỏ,
cha nó bắt phải
đi học chữ,
nhưng do mê võ nên thằng Truyền chỉ
học chữ
buổi sáng, đến buổi
chiều nó lén đi học võ với các sư phụ
Tư Ngộ,
Hai Tỷ ở
gần nhà. Năm 16, 17 tuổi, nó đã đi thi đấu võ đài”, ông Bảy Sang nói.
Mặc dù võ nghệ đã khá, chàng thanh niên Trần Kim Truyền vẫn
lén gia đình tìm đến
vùng Bảy Núi tầm sư
học võ và trở thành đệ tử
chân truyền chính tông cuối cùng của TSTQ. Tuy nhiên, thuở sinh tiền, võ sư Hoàng Bá cho biết
ông chưa lĩnh hội
được “thần quyền”
thì sư phụ
đã cho xuất sơn xuống
núi. Biết “duyên phận” chỉ
đến đó nên ông cũng không thể cưỡng
cầu. Sau đó, ông về mở
võ đường, thu nhận đệ
tử tại
Long Xuyên, lấy tên là Hoàng
Bá. Những năm từ 1958 đến 1960, lò võ Hoàng Bá nhanh chóng
nổi tiếng
trong giới võ thuật miền
Nam, cả nước
và thậm chí khu vực Đông Nam Á qua các cuộc thượng
đài. “Hồi đó lên võ đài là phải ký giấy sinh - tử, 2 cái hòm (quan tài) được để sẵn
bên hông. Mặc dù người học võ không được phép đánh chết người,
nhưng vì quyền
cước không có mắt nên phải làm như vậy.
Bởi vậy,
cha thằng Truyền không đồng tình cho nó theo nghiệp võ”, ông Bảy Sang nhớ lại.
Năm 1960, trong một
trận đấu
tranh giải khu vực Đông Nam Á, võ sư Hoàng Bá bất
ngờ đối
mặt đồng
môn là võ sĩ Nosar của
Campuchia - một truyền nhân của TSTQ. Trận đấu
sau đó đã được dừng lại
vì trong 9 điều thệ của
đệ tử
TSTQ có cấm đồng môn tương sát. Cũng từ đó, đệ tử
TSTQ khắp nơi
tề tựu
về Long Xuyên để chấn
hưng lại
môn phái. Trong số
10 võ sư gạo
cội thì chỉ có 1 người được truyền thụ
“thần quyền”,
nhưng chưa
kịp truyền dạy
cho đệ tử
nào thì ông này đã qua đời.
Riêng võ sư Hoàng Bá sau đó lấy tên lò là Thất Sơn
Võ Đạo,
thu nhận rất
nhiều đệ
tử. Có một thời
gian dài, võ sư Hoàng Bá còn làm huấn luyện
viên môn võ cổ truyền cho các võ sĩ tại Trung tâm TDTT tỉnh An Giang đi thi đấu đạt
nhiều thành tích cao. Đệ tử
cuối cùng của võ sư Hoàng Bá là anh Phan Thanh Thuận, hiện
cũng đang là huấn
luyện viên võ cổ truyền
tại trung tâm này. Anh Thuận theo học tại
nhà võ sư Hoàng Bá từ
năm 1991-1994. Lúc này, võ sư
Hoàng Bá đã đóng cửa võ đường và Thuận là đệ tử
cuối cùng. Anh Thuận cho biết, những
thế võ anh theo học có rất nhiều
bài quyền cận
chiến hay như Mãnh hổ
tọa sơn,
Linh miêu đoạt thạch,
Tam sơn trấn
ải, Xí mứng, Phá xí mứng, Pha bốc bế...
" - Mai Tuyết.
* Theo tài liệu của dienbatn về vấn
đề này như sau : ( Đây chỉ là tài liệu chép lại - Không phải là quan điểm của
dienbatn ).
Thất sơn
Thần quyền
có tại Việt
nam từ cuối
thế kỷ
19 , nhưng sự
ra đời và phát triển bước
đầu tại
Huế . Người
sáng lập và truyền bá các bí quyết của
môn phái là Võ sư
Ngọc Lộ
- tự là Ngọc Sơn
- Sinh tại làng Ngọc Anh - Phú Vang - Huế. Đầu
năm 1958, vào 14/2 , võ sư
Trần Ngọc
Lộ được
Thần linh tại miếu
Ngọc Quối
báo mộng : Con có thiện duyên được nhiều vị
Thần hỗ
trợ , phải
đích thân tầm sư học
Đạo ".
Tiếp đến
ngày 15/4 cùng năm , vị
Thần lại
xuất hiện
và báo mộng lần
thứ 2. Sau lần này Ngọc Lộ
tự phát nguyện ra đi tìm Sư phụ
học Đạo.
Sau ngiều ngày tìm tòi ,
ngày 20/5/1958. Trần
Ngọc Lộ
đã đến khu vực Thất
Sơn - thuộc An Giang . Trước khi vào núi quy y thọ phái, Ngọc Lộ
đã đứng tại
khu vực Núi Cấm 3 ngày cầu Đạo
và cuối cùng đã được một phật
tử của
Phật Thày Tây An tiếp nhận
và đưa vào Núi Sam. Tại
đây , Thày đã có thiện
duyên gặp Phật
, thày có kể lại những
giấc mộng
của mình và Phật Thày cũng đã biết trước
được những gì Thày định kể.
Trong thời gian thọ giáo tại Núi Sam, Ngọc Lộ
đã quyết tâm , miệt mài tiếp thu những bùa phép huyền bí của bản
môn do Phật Thày Tây An
truyền thụ.
Trong vòng 6 năm , Ngọc
Lộ đã quán triệt được
hầu hết
chương trình học tập
của Phật
Thày chỉ dạy
và Phật Thày đã quyết định
cho Ngọc Lộ
hạ sơn
. Ngày 16 tháng Chạp năm Giáp Thìn ( 1964 ) , Phật Thày đã cho Ngọc Lộ
hạ sơn
và trở về
quê quán.
Về đến
quê, Ngọc Lộ
vẫn âm thần luyện
tập , tu luyện tại
miếu cây Ngọc Quối
làng Vĩ Dạ - Thành phố Huế.
Chưa đầy
một năm từ khi về quê, Ngọc Lộ
nóng lòng muốn truyền thụ
pháp thuật của
bản môn nên đã thu nhận một
số đệ
tử . Rất
nhiều chướng
ngại đã đến với
Ngọc Lộ
và gia đình , nhưng
thày vẫn chấp
nhận hy sinh cuộc đời
của mình , được cứu khổ
cho con em , đồng bào mình, hy
vọng những
học trò của mình sẽ trở
thành những người
có đức độ
, cứu khổ
cho xã hội.
Ngày rằm tháng 2 là một đêm tối trời,
Ngọc Lộ
cùng gia đình đã được
chứng kiến
cảnh một
vầng hào quang sáng rực từ
ngoài bay đến bàn thờ Phật
. Đó chính là lúc Phật
bà nhập nội,
đúng như Phật
Thày Tây An truyền
dạy khi Ngọc Lộ
hạ sơn.
Ngọc Lộ
phát nguyện lập bàn thờ Phật
bà, bàn thờ Tổ , nguyện tịnh
trai và đặt tên môn phái
là THẤT SƠN
THẦN QUYỀN.
Từ ngày lập ban thờ và tịnh
trai, mọi kiếp
nạn của
Ngọc Lộ
đều qua hết. Chỉ
trong vòng 10 tháng, số
môn sinh ở Huế đã lên tới 600 người , chưa kể
ở những
nơi khác. Ban huấn
luyện lúc đó bao gồm :
* Anh Việt là trưởng tràng , phụ trách huấn luyện
lúc Thày đi vắng.
* Anh Thắng huấn
luyện tập
sự tại
bàn thờ Tổ.
* Bác Chiên là huấn
luyện viên tập sự
kiêm thủ quỹ
của môn phái.
* Chú Bích là thư
ký và là tùy viên của Thày.
Ban huấn luyện
tập trung phát triển tại
bàn Tổ, còn những việc
ở xa là do Thày và anh Việt phụ
trách. Ngày giỗ Tổ đầu
tiên được chọn là 3 ngày 14- 15-16 tháng 12 âm lịch năm Kỷ Mùi ( 1967 ). Suốt 3 ngày đó , môn sinh đông đúc đã
làm náo động thành phố Huế.
Tiếp đó ngày 25 cúng Tổ xong, Thày và đệ tử
vào Thuận An để thiết
lập bàn thờ Tổ
của chi nhánh thứ 2 cho các môn sinh miền duyên hải do anh Trọng đảm
nhiệm.
Ngày 30/12 năm 1967, các đệ
tử ở
4 phương đều
đến Tết
Thày và lần lượt trở về
nhà.
Tuy nhiên từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 7 tết Mậu
Thân, thành phố Huế chìm trong máu lửa của
cuộc tổng
tấn công . Tới ngày mùng 8 Tết chiến
sự mới
tạm ngưng.
Trong cuộc tổng
tấn công và nổi dậy
tại Huế
này, võ sư Trần Ngọc
Lộ , bác Đoàn Văn Thiên ( ở La Hỉ
- là một huấn luyện
viên ), anh Trần Văn Việt là trưởng tràng, anh Đỗ Viết
Thắng phụ
trách bàn thờ Tổ đều
ra đi trong kiếp nạn của
mình, bỏ lại
đằng sau một sự
nghiệp vừa
mới hình thành , một lớp
đệ tử
còn non nớt. Sau biến cố
Mậu Thân 1968, võ sư Trần
Ngọc Lộ
chỉ còn để lại
cho lớp đệ
tử của
mình một ban thờ Tổ
để các môn đệ lễ
Phật, lễ
Tổ, một
khuôn in Bùa thức
ăn và 1 khuôn in khăn ấn
tối thượng
, toàn bộ sổ
sách , binh thư ghi chép bí quyết thần
bí của môn phái Thất Sơn
Thần quyền.
Tất cả
những vật
đó được con trai của Thày là Trần Ngọc
Khoa ở thành phố Huế
lưu giữ.
Tư liệu
2 .
Huyền thoại
về Thất
Sơn Thần
Quyền .
Năm 1859, Pháp bắt
đầu đánh chiếm Nam kỳ Lục tỉnh
(Nam bộ). Một
giai đoạn bi thảm bắt
đầu trên vùng đất mới
khẩn hoang chưa lâu lắm.
Triều đình nhà Nguyễn bất
lực trước
sự xâm lăng ngang ngược của thực
dân Pháp đã lên tục
nhượng bộ cắt
đất, bất
lực ngồi
nhìn súng đạn thực dân thôn tính miền Nam, sau đó thôn tính và đặt ách đô hộ lên toàn nước Việt. Nhiều bậc
trung quân ái quốc
tức giận
kháng mệnh triều đình. Nhiều chí sỹ tựu
quân kháng chiến cứu nước.
Vùng Bảy Núi, tức Thất
Sơn (hiện
nay thuộc tỉnh
An Giang) trở thành căn cứ địa
của các lực lượng
nghĩa quân Nam Bộ.
Thật ra, Thất Sơn
có đến
10 ngọn núi nhưng thời
vua Tự Đức
chỉ đặt
tên cho 7 ngọn tượng trưng cho 7 linh huyệt gồm:
Anh Vũ Sơn (Núi Kéc), Thiên Cẩm
Sơn (Núi Cấm),
Ngũ Hồ Sơn
(Núi Dài), Liên Hoa Sơn (Núi Tượng),
Thủy Đài Sơn (Núi Nước),
Ngoạ Long Sơn (Núi Dài Văn Liên), Phụng
Hoàng Sơn (Núi Tô).
Do địa
điểm hiểm
trở, dãy nối dãy, ngọn liền
ngọn, rừng
rậm hoang vu nên vùng núi này có nhiều loại
thực vật,
động vật
cực kỳ bí hiểm. Cọp
beo, rắn rết
cùng những loại
cây ăn thịt (dân gian gọi là ngãi) đã khiến nhiều
người bỏ mạng
mất xác khi cố tình thâm nhập. Trước
sức mạnh
vũ khí hiện đại của
quân Pháp, lực lượng nghĩa quân chỉ có binh khí thô sơ và lòng quả
cảm. Những
người chỉ huy phải sử
dụng đến
“vũ khí tâm linh”. Võ phái Thất
Sơn thần
quyền ra đời từ
đó. Để giữ
bí mật nơi
trú ẩn, nghĩa sỹ kháng chiến đã lợi dụng
sự kỳ bí của tự
nhiên, lợi dụng
địa thế
hoang vu hiểm trở của
rừng rậm,
núi cao thêu dệt nên những câu chuyện linh thiêng nhằm để
tiếp thêm sức mạnh
cho binh sỹ và uy hiếp kẻ
thù.
Hiện nay, truyền nhân duy nhất và cuối cùng của Thất
Sơn Thần
Quyền là võ sư Hoàng Bá, cư
ngụ tại
cầu Tầm
Bót, TP. Long Xuyên, tỉnh
An Giang. Đã hơn 75 tuổi, gần
20 năm nay, võ sư
Hoàng Bá đóng cửa võ đường, không thu nhận đệ
tử nữa.
Điều đáng tiếc là võ Sư Hoàng Bá, tuy là truyền
nhân nhưng không phải
là chưởng môn nên không lĩnh hội được
hết tuyệt
chiêu của Thất
Sơn Thần
Quyền. Ông cho biết, người
trưởng môn duy nhất và cuối cùng của võ phái, nắm giữ
tất cả
tuyệt chiêu là ông Đạo Ngựa
tu luyện ở
núi Sam, Châu Đốc.
Võ sư Hoàng Bá chỉ
là truyền nhân của một
bản sao Thất Sơn
Thần Quyền.
Vì vậy, ông chỉ lĩnh hội được
một số
tuyệt kỹ
thuộc về
phần “dương
công” của Thất
Sơn Thần
Quyền, chứ
không nắm không nhiều những
bí quyết về
phần “âm công”. Võ sư Hoàng Bá đánh giá: “Thất
sơn thần
quyền là một môn phái cận chiến
thực dụng,
chỉ hữu
ích trong chiến đấu thuở
gươm đao xưa. Người
võ sinh có những phương pháp luyện tập
dị biệt.
Vì bài quyền không có lời thiệu
nên bị tam sao thất bổn.
Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo
sự tự
tin, bình tĩnh. Trong chiến
đấu, sự
tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi”.
Thất Sơn
Thần Quyền
chính tông là một
phái võ đặc dị gồm
2 phần: Quyền và Thuật. Quyền là phần “dương
công” gồm những
thế võ cận
chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần “âm công” huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực.
Vì môn qui, người đệ tử
duy nhất được
chọn kế
thừa trưởng
môn mới được
sư phụ
truyền dạy
phần “âm công”. Tương truyền, võ sinh Thất Sơn
Thần Quyền
chính phái có tuyệt
chiêu gọi hồn
nhập xác. Khi giáp chiến võ sỹ chỉ
sử dụng
quyền thế
trong dương công để
tấn công đối phương.
Nếu gặp
đối thủ
lợi hại,
võ sỹ dùng huyền thuật
gọi hồn
một vị
thần giỏi
võ nhập xác vào võ sỹ trợ
giúp.
Vào năm 1967, những
người cao niên sinh sống dưới
chân Núi Sam (Châu Đốc,
An Giang) vẫn còn thấy một
đạo sỹ
gầy, râu tóc bạc phơ,
tu luyện trong rừng sâu trên đỉnh núi. Hàng ngày, vị đạo
sỹ này cưỡi ngựa xuống
núi trao đổi lương thực với
người dân quanh vùng.
Vị đạo
sỹ này rất kiệm
lời nên không ai biết thân thế, tên tuổi của
ông. Ông không bao giờ
rời lưng
ngựa. Điều
đáng quan tâm là, hình dáng ông trông rất
ốm yếu,
lại cưỡi
ngựa không yên cương. Dốc núi gập ghềnh
đá, ông phải có sức mạnh
phi thường mới có thể cưỡi
ngựa lên đỉnh xuống
vồ. Vì thế, người
dân địa phương
gọi đùa là ông Đạo Ngựa.
Một lần
dong ngựa xuống
núi đổi rau củ lấy
gạo, bắt
gặp một
toán cướp dùng súng uy hiếp người
dân, ông xuống ngựa can thiệp. Đó là lần đầu
tiên người ta thấy ông rời lưng
ngựa. Toán cướp thấy ông ốm yếu
xông vào toan đánh đập.
Không ngờ chỉ
bằng một
ngón tay, ông đã khiến
một tên cướp trợn dọc
mắt, ngã lăn bất tỉnh.
Tên cướp khác toan nổ súng. Ông rùng mình một cái rồi sau đó như điên loạn.
Ông bay vèo đến cạnh tên cướp tước súng rồi vung chân múa tay đánh gục hết
những tên còn lại. Ông ung dung lên ngựa trở
về núi. Một ông già ốm yếu
đánh gục toán cướp khỏe mạnh
lại có vũ khí trong tay khiến nhiều
thanh niên thán phục.
Họ rủ
nhau lên núi tìm ông xin học
võ. Không ai tìm được
nơi trú ẩn
của ông. Tuy nhiên, có một người
thanh niên quyết tâm tìm ông
cho được. Người thanh niên này bò lên
đỉnh núi Sam tìm nơi ngồi
thiền lâm râm khấn: khi nào gặp được
sư phụ
mới chịu
xuống núi. Sau hai ngày chịu nắng
mưa, đói khát giữa
rừng sâu núi thẳm, người
thanh niên ấy ngất xỉu.
Khi tỉnh lại
thì thấy mình nằm trong một hang động. Kể
từ ngày đó, người thành niên ấy trở
thành đệ tử
chân truyền của Đại
sư Đạo
Ngựa. Ngoài Hoàng Sơn còn có một
tiểu đồng
tên Ba giúp ông Đạo
Ngựa nhang khói. Trong những ngày thụ đạo,
người thanh niên ấy mới
biết sư
phụ mình là đệ tử
kế thừa
trưởng môn Thất Sơn
Thần Quyền
của Nam Cực Đường.
Nam Cực Đường
của Đại
sư Bảy
Do lập năm từ đầu
thế kỷ
20 đào tạo nghĩa sỹ kháng Pháp. Năm 1917, quân Pháp
bao vây bắt Đại sư
Bảy Do đày ra Côn Đảo. Năm 1926, tạo nhà lao Côn Đảo, Đại
sư Bảy
Do cắn lưỡi
cho máu chảy đến chết.
Học được
gần 1 năm, đã hết phần
“dương công” chuẩn bị
bước sang phần “âm công”, người thanh niên ấy xin về nhà giỗ cha. Giỗ cha xong, khi trở lại
núi Sam, người thanh niên
không tài nào tìm được
hang động cũ. Nghĩ rằng sư
phụ muốn
lẩn tránh mình, người thanh niên ấy đành lại tạ
hư không rồi
xuống núi. Từ ngày đó cũng không ai còn thấy bóng dáng ông Đạo Ngựa
một lần.
Ông mất hút giữa rừng
núi thiêng. Người thanh niên ấy chính là lão võ sư Hoàng Sơn.
Năm 1960, trong một trận
thi đấu tranh giải võ thuật khu vực Đông Nam Á, võ sỹ Hoàng Sơn đại
diện đoàn Việt Nam đấu với
võ sỹ Kh’mer tên là Nosar. Vào hiệp một,
chỉ sau vài chiêu giao đãi, võ sỹ Sonar xin dừng trận
đấu vì nhận ra đồng môn. Hóa ra, Nosar cũng là đệ tử
của Thất
Sơn Thần
Quyền. Năm 1970, ông Nosar trở thành Phó Chủ tịch
Hội đồng
võ thuật Campuchia đã đào tạo ra những võ sỹ “thần
quyền” nổi
tiếng Campuchia như Nosar Long, Nosar Lieng. Hóa ra Nosar là truyền nhân mấy đời
của ông Cử Đa ở
Tà Lơn.
Thời điểm
đó, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh
đang sưu tầm
tuyệt kỹ
công phu của các môn phái
võ Việt Nam đã phát hiện võ sỹ Hoàng Sơn là truyền
nhân của Thất
Sơn Thần
Quyền. Năm 1968, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh
tìm đến tận
nhà Hoàng Sơn đề
nghị qui tựu những
người hiểu biết
về Thất
Sơn Thần
Quyền để
sưu tầm
một môn phái đã bế truyền.
Do chưa được
truyền thụ
phần “âm công” tức phần
“thần” mà chỉ biết
phần “dương
công” tức phần
“quyền” nên Hoàng Sơn chỉ
dám trương cờ Thất
Sơn Võ Đạo
tại Long Xuyên. Lá cờ nên đó có thêu hình 7 ngọn núi màu đen. Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh
đứng chân tạo đó làm cố vấn
cho Thất Sơn
Võ Đạo.
Mục đích của Thất
Sơn Võ Đạo
là quy tựu các đồ đệ
đồng môn tứ tán khắp nơi
về để
thống nhất
các chiêu thức, các bí thuật “âm công” và truyền dạy
lại cho thế hệ
sau. Chỉ trong một thời
gian ngắn, 10 võ sư từ
các nơi nghe tin đã quy tựu về
góp sức, gồm:
Nguyễn Thành Diệp, Phùng Vũ Châu (Tư Tiếp),
Nguyễn Giầu,
Nguyễn Thọ,
Nguyễn Thôi, Lê Đình Tây, Trần Văn Tủy, Lê Minh Nho, Sáu Rẩm, Hoàng Bá (trẻ tuổi
nhất).
Trong số 12 thành viên, Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh
và đại lão võ sư Nguyễn
Thành Diệp cao niên nhất. Đại
lão võ sư Nguyễn
Thành Diệp là người may mắn nắm
giữ được
nhiều bí quyết phần
“âm công” nhất. Tiếc rằng,
đại lão võ sư Nguyễn
Thành Diệp chưa
kịp hệ
thống lại
các bí quyết thì qua đời năm 1970. Những bí ẩn của
Thất Sơn
Thần Quyền
xem như chìm vĩnh viễn
vào hư vô.
Tuy không còn lưu giữ
được các bí thuật huyền
diệu nhưng
kể từ
ngày thành lập, Thất Sơn
Võ Đạo
cũng đào tạo được rất nhiều
võ sỹ nỗi
tiếng khắp
Châu Á. Tất cả những
trận thư
hùng khu vực giữa
các võ đường danh tiếng Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Malaixia, Indo, Philipin đều
có mặt võ sỹ Thất
Sơn Võ Đạo.
Trận giao đấu tốn
nhiều giấy
mực của
các ký giả thể thao miền Nam lúc ấy là trận Hoàng Thọ, đệ
tử của
võ sư Hoàng Sơn
(môn phái Thất sơn
Võ Đạo)
đấu với
võ sỹ Tinor (Môn phái Trà Kha) vào năm
1973 trong đại hội võ thuật tại
Sài Gòn. Tinor là võ sỹ
Lào được báo chí đặt cho biệt danh “Cọp bay” bởi chiêu song cước. Nhiều võ sỹ đã phải đo ván bởi cú đá bay nhanh như chớp
và chính xác như
công thức của
võ sỹ này.
Trận trước,
“Cọp bay” Tinor thi đấu với
võ sỹ Dương
Văn Me (sau này là võ sư Huỳnh Tiền). Khi mới vào kẻng, võ sỹ Dương
Văn Me chưa kịp
chuẩn bị,
“Cọp bay” Tinor đã bay người tung cú đá từ phía sau. Dương Văn Me bị gãy xương sườn, trọng tài xử thua.
Dưới khán đài, một cuộc
ẩu đả
xảy ra giữa hai phe cổ động
viên. Bất phục,
võ sỹ Hoàng Thọ nhảy
lên võ đài thách đấu
với “Cọp
bay” Tinor (lúc ấy
luật thi đấu võ thuật cho phép thách đấu). Cuộc thách đấu được
các đại lão võ sư cả
hai phía chấp nhận thiết
lập để
vãn hồi trật
tự dưới
khán đài. Do đó là trận
thách đấu nên được Ban Tổ chức
thu xếp vào ngày cuối cùng và năm ngoài giải đấu.
Khi võ sỹ Hoàng Thọ và “Cọp bay” Tinor thượng đài, ai cũng ái ngại cho Hoàng Thọ. Lúc đó, Hoàng Thọ chỉ
là một võ sỹ chưa
tên tuổi lại
thấp hơn
“Cọp bay” Tinor một cái đầu.
Vào hiệp 1, “Cọp bay” Tinor xông lên áp đảo Hoàng Thọ vào góc đài. Chờ Hoàng Thọ lúng túng trong góc chết, “Cọp
bay” Tinor tung một
cú đá thốc từ
dưới bụng lên. Hoàng Thọ dính đòn bật ngửa.
Ai cũng tưởng Hoàng Thọ nằm
vĩnh viễn trước
cú đá bạt sơn
của võ phái Trà Kha nỗi tiếng
về chuyện
mình đồng da sắt.
Không ngờ Hoàng Thọ tung mình đứng lên, mặt đỏ
au, mắt trợn
ngược, tóc tai dựng đứng,
tay chân vung đánh loạn
xạ không theo một bài bản nào. “Cọp bay” Tinor vừa chống
đỡ vừa
lùi ngược. Hoàng Thọ thét một tiếng
rồi vung chân đá thẳng vào hàm Tinor. Tiếng xương
hàm vỡ phát ra cùng lúc với tiếng
kẻng kết
thúc hiệp 1. Tinor đầu hàng.
Ngay trong ngày, Tinor được
đưa về
võ quán ở Lào để điều
trị rồi
chết sau đó vài tháng. Hoàng Thọ trở
nên nổi tiếng
với bài “Thần quyền
giáp chiến” của
Thất Sơn
Võ Đạo.
Đó là một trong số 3 bài quyền còn nguyên vẹn phần
quyền (võ) lẫn thuật
(phép).
Lần theo sử liệu
.
Theo hướng dẫn của
võ sư Hoàng Bá, chúng tôi tìm đến
Học Lãnh Sơn để
gặp một
đạo sỹ
chỉ có cái tên duy nhất là ông Ba. Ông Ba cất một
cái am u tịch giữa lưng
chừng ngọn
Học Lãnh Sơn để
luyện đạo.
Ông Ba đã 99 tuổi.
Thuở thiếu
niên ông Ba làm tiểu
đồng cho ông Đạo Ngựa
để học
đạo. Sau vài câu giao đãi, ông Ba trầm ngâm lần tràng hạt, suy tưởng về quá khứ.
Ông cho biết, ông không học võ thuật mà chỉ học
đạo. Ông xác nhận vào thời gian theo ông Đạo Ngựa
học đạo
có một người
tên Sơn được
ông Đạo Ngựa
truyền thụ
“võ thần”. Tuy không học võ nhưng ông Ba được
sư phụ
kể cho nghe về xuất
xứ môn võ này.
Ông Ba khẳng định, những tổ
sư môn võ thần
này không đặt tên gọi nhưng
do có xuất xứ
từ vùng 7 núi linh thiêng nên người đời gọi
là Thất Sơn
Thần Quyền.
Môn võ này có 4 phần
luyện là tam đạo nhất
thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là tâm đạo, định
thần dưỡng
khí gọi là thể đạo,
luyện thân tráng kiện gọi
là quyền đạo.
Phần luyện
thứ tư
gọi là luyện thần.
Ông cho biết thêm, tổ sư
của môn phái võ này chính là Chàng
Lía, một lãnh tụ kháng chiến chống
triều đình trước thời kháng Pháp. Chàng Lía chỉ huấn
luyện cho nghĩa binh phần tam đạo chứ
chưa có phần
nhất thần.
Khi phong trào kháng chiến
của Chàng Lía bị triều
đình đàn áp, giải
tán, một đại
đệ tử
là Hải Đề
Long dẫn một
số đệ
tử chạy
trốn từ
phía Bắc vào Nam trú ở vùng núi Tô Châu lánh trần tu tịnh. Trong số đệ
tử có một
người tên Nguyễn Văn Đa rất giỏi.
Thời Thiệu
Trị cuối
cùng, Nguyễn Văn Đa thi đậu võ cử nên được gọi là Cử Đa.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm
thành Vĩnh Long. Sau đó, tiến
lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc
Tổng đốc
Phan Khắc Thận
phải đầu
hàng. Tỉnh An Giang mất vào tay Pháp vào ngày 22 tháng 6
năm 1867. Trần Văn Thành
không hàng Pháp mà mang quân qua Rạch
Giá, hỗ trợ
kháng chiến quân của Nguyễn Trung Trực.
Trần Văn Thành sinh năm 1920 ở ấp
Bình Phú, làng Bình Thạnh
Đông, tổng An Lương, quận Châu Phú Hạ, tỉnh
Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Năm 1840, ông gia nhập quân đội nhà Nguyễn được
cử làm suất đội
trong chiến dịch giải
giáp Nặc Ông Đôn (em vua Cao Miên, khởi quân chống lại
Việt Nam). Năm 1845, ông được thăng làm Chánh quản cơ,
coi 500 quân,
đóng quân ở Châu Đốc để
giữ gìn biên giới phía Tây Nam.
Tháng 6 năm 1968, Nguyễn
Trung Trực đánh chiếm được
đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức
phản công. Do địch được
trang bị vũ khí vượt trội nên Nguyễn Trung Trực rút lui ra Hòn Chông, còn Trần Văn Thành thì dẫn lực
lượng của mình vào Láng Linh – Bảy Thưa
dựng trại,
khai hoang, luyện
quân và rèn đúc vũ khí chờ
thời cơ.
Đó là khoảng thời
gian hình thành môn phái võ Thất
Sơn Thần
Quyền.
Khi triều đình nhu nhược trước quân Pháp, ông Cử Đa thất vọng
từ quan về vùng Thất Sơn
đứng
dưới cờ kháng chiến của
nghĩa quân Trần Văn Thành (quản cơ
Trần Văn Thành) vào năm 1862. Lúc ấy nghĩa quân Trần Văn Thành trú đóng dưới chân núi Liên Hoa Sơn (căn cứ
Láng Linh – Bãi Thưa)
lập căn cứ kháng chiến lâu dài.
Láng Linh – Bãi Thưa
là hai cánh đồng
rộng nằm
liền kề,
có nhiều đầm
lầy, lau sậy và vô số cây thưa um tùm tăm tối. Căn cứ chính của Trần
Văn Thành có tên là Hưng
Trung doanh, đặt tại
trung tâm rừng Bãi Thưa (nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh,
huyện Châu Phú, An Giang).
Ông Cử Đa trở thành người huấn luyện
võ thuật cho quân kháng chiến. Trong khi quân Pháp sử dụng
vũ khí hiện đại, quân kháng chiến chỉ
có các loại đao, thương và súng tự chế.
Để trấn
an tinh thần nghĩa quân, thủ lĩnh nghĩa quân Trần Văn Thành giao cho Ngô Lợi huấn
luyện phép thuật.
Nhằm tạo
niềm tin, thu hút nhiều quần
chúng tham gia kháng chiến,
Ngô Lợi đem nền tảng
đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương lập một
tôn giáo mới có tên gọi là Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Những tín đồ được
Ngô Lợi phát bùa đeo nhằm… chống
đạn. Ông Ngô Lợi còn dùng sấm truyền để
tín đồ tin rằng sắp
đến ngày tận thế
(đồng khởi),
ma quỷ (quân Pháp) đã hiện ra đầy đường
và núi Cấm sắp
mở hội
“Long Hoa”.
Chỉ trong một thời
gian ngắn, người
dân khắp đồng
bằng bồng
bế gia đình kéo về vùng kháng chiến Láng Linh nườm nượp. Ngô Lợi phải
chia đất cho tín đồ cất
nhà, lập làng và tổ chức
khai hoang lập ruộng sản
xuất lấy
lương thực nuôi quân. Theo lệnh của
Quản cơ
Trần Văn Thành, ông Ngô Lợi còn bày cách cho tín đồ đóng ghe nhiều chèo phục vụ
cho chiến đấu.
Sau một thời
gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất
cờ chống
Pháp, lấy hiệu
là Binh Gia Nghị.
Nghe tin, Pháp cử
chủ tỉnh
người Việt tên Trần Bá Lộc đưa
mật thám xâm nhập căn cứ.
Năm 1873, sau khi nắm
rõ tình hình nghĩa quân, Trần
Bá Lộc dẫn
quân Pháp đánh vào Bảy
Thưa. Ông Trần
Văn Thành tử trận. Cuộc
khởi nghĩa thất bại.
Quân Pháp tàn sát, giết
hại, đốt
làng của tín đồ Tứ
Ân Hiếu Nghĩa. Ông Ngô Lợi thoát nạn, sau này quay trở về
Láng Linh tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân dưới danh nghĩa tôn giáo
chờ thời
cơ. Khi quân Pháp càn quét vào vùng căn cứ, một
trong những đệ
tử của
Bổn sư
Ngô Lợi đã dùng một chiếc
ghe nhiều mái chèo theo sông Cái ra biển đào thoát về tận
vùng núi Long Sơn
ở Bà Rịa
lập nên đạo Ông Trần.
Riêng ông Cử Đa cải trang thành một vị
sư lấy
tên là Sư Bảy,
giả điên khùng, lưu lạc
nhiều nơi
để
tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phái lánh
sang Campot,Campongtrach, đến
núi Tà Lơn tức
Bokor (Campuchia).
Đến năm 1896, ông Cử Đa mới
dám trở về
vùng núi Cấm lập am ẩn
danh. Năm 1896, khi rời
Campuchia về nước, ông Cử Đa tìm gặp Đức
Bổn sư
Ngô Lợi để
bàn chuyện tiếp
tục đánh Pháp. Nhưng vị
tu sỹ này từ chối
do chưa đến
thời cơ.
Thất chí Cử Đa về
vùng rừng Tri Tôn lập chùa Năm Căn qui ẩn.
Riêng làng An Định,
nơi được
xem là thủ phủ của
đạo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa với ngôi chùa Tam Bửu và Phi Lai do chính Ngô Lợi tạo
dựng, quân Pháp bố ráp xóa làng 5 lần nhưng
không xóa được
lực lượng
nghĩa quân này.
Sau khi Ngô Lợi bị bệnh
qua đời, những
kháng chiến quân trong đội ngũ tín đồ vẫn
tiếp tục
rèn luyện võ nghệ chờ
thời cơ
đánh Pháp. Nhưng do không còn người lãnh đạo, lực
lượng này mai một dần.
Một thời
vang bóng
Khi nhập môn, võ sinh của Thất
Sơn Thần
Quyền học
bài vỡ lòng là bài khấn tổ:
Nam mô tổ sư
tam giáo đầu
sư Dương
Gia, Chàng Lía, cha Hồ, chúa Nhẫn, tổ
sư Hải
Đề Long núi Tô về cảm
ứng nhậm
lễ chứng
miên cho đệ tử…”.
Sau đó, người võ sỹ được
học những
bài chú kêu gọi các đấng siêu nhiên nhập xác (như lên đồng)
ứng chiến gọi
là chú “thỉnh tổ”: “Nam mô thập hương
chư phật,
chư vị
đại thần
đại thánh đại hải,
chư vị
bồ tát…thập bát la hán, bát quái tổ sư… Án Lỗ ban tiên sư phù, Lỗ
Ban đại sát, dụng hưng
yên bất dụng
hương đăng hoa quả vật
thực chơn
hình trợ kỳ đệ
tử thần
tự…hội
Tà Lơn Thất
Sơn, 5 non, 7 núi, rừng rú, tổ lục,
tổ lèo, tổ xiêm, tổ mọi,
tổ chà đồng lai đáo hạ hộ
giá quang minh, chấp
kinh trì chú cứu thế trợ
dân cấp cấp
như luật
lịnh sắc”.
Điều này cho thấy các nghĩa quân kháng chiến ngày xưa đã áp dụng
bùa Lỗ Ban có xuất xứ
từ Trung Quốc vào hệ thống
“âm công” của Thất Sơn
Thần Quyền.
Về quyền
thế, Thất
Sơn Thần
Quyền có nhiều bài hay như: Linh miêu đoạt thạch,
Tam sơn trấn
ải, Mãnh hổ tọa
sơn… Vào thập
niên 1960, Thất Sơn Thần
Quyền kể
như không tồn
tại nữa
mà chuyển thể
thành Thất Sơn
Võ Đạo.
Thất Sơn
Võ Đạo
là những quyền thế
dương công của Thất
Sơn Thần
Quyền. Tuy không còn yếu tố
huyền linh nữa nhưng
Thất Sơn
Võ Đạo
cũng tạo được
tiếng vang trong làng võ Nam Bộ thời
ấy.
Thời điểm
này, phong trào võ thuật
vùng Nam Bộ rất sôi động, nơi
nào cũng có võ đường
Thần Quyền:
Sa Đéc có lò võ Sáu Cường;
Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy
Biển ở
Kiên Giang; Ba Hoằng
ở Long Xuyên. Nhiều võ sư tạo
được tiếng vang nhờ đào tạo được
những võ sỹ vô địch
trong các trận đấu võ đài. Đến tận
ngày nay, những võ sư ấy
vẫn còn được nhiều người
nhắc như:
Hai Diệp, Mười
Nho, Nguyễn Mách, Út Dài,
Thiên Đường.
Họ thường
tổ chức
thi đấu tại
Chợ Lớn
(quận 5) mang tính giao hữu với
các quốc gia trong khu vực như
Campuchia, Hồng Kông. Trong
những cuộc
đấu giao lưu ấy,
nhiều võ sỹ Việt
Nam đã tạo được
sự thán phục của
các võ sư, võ sỹ
nước ngoài.
Báo chí thể thao dạo ấy
đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ Thần
Quyền như:
Võ sỹ Minh Sang có đường quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn có cú đấm
nhanh như chớp
và cú húc chỏ “hồi mã thương”, võ sỹ Chhit Sarim (người Campuchia theo học Thần
Quyền).
Trong một trận
thư hùng giữa
võ sỹ Trần
Mạnh Hiền
Việt Nam đấu với
võ sỹ Hồng
Kông là Châu Đạt Vinh Hồng Kông, môn đệ của
Vịnh Xuân Quyền xảy
ra năm 1973 khiến
báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần
Mạnh Hiền
đã thắng tuyệt đối
bằng một
cú đá thần sầu
ở hiệp
ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở
ấy đã trở thành đại võ sư.
Ngày nay, Thất Sơn
Thần Quyền
chỉ còn là ký ức của
những võ sư miệt
đồng bằng
sông Cửu Long. Dù không ai chứng minh được sự mầu
nhiệm của
môn phái này nhưng
xuất xứ
của Thất
Sơn Thần
Quyền gắn
liền với
một trang sử hào hùng, bất khuất
của dân tộc Việt.
Đó là điều cần
ghi nhận.( Nông Huyền Sơn
).
Một danh sư Thất
Sơn võ đạo
đã mai danh tại Long Xuyên,
cho biết: “Ngày xưa (đầu
thế kỷ
20) tỷ thí võ đài không như bây giờ.
Do nhiều hệ
phái, chi phái xuất
sơn hoà nhập
với cộng
đồng, ai cũng muốn phái của mình là đệ nhất
võ lâm nên các võ sư
thường tổ chức
tỷ thí võ đài để tranh ngôi cao thấp. Vì vậy, nhiều cuộc
thư hùng tranh tài cao thấp
đã diễn ra”.
Thông thường, các võ sỹ không bao giờ dám tỷ thí võ đài nếu không có sự đồng
ý của sư
phụ.
Tỷ thí võ đài ngày xưa khác xa với
đấu võ đài ngày nay như một
số người
lầm tưởng.
Ngày xưa, những
cuộc tỷ
thí võ đài thường do sư phụ,
huynh trưởng của môn phái này với môn phái kia hoặc chi phái này với chi phái kia “thách thức” nhau. Họ chọn
một bãi đất trống
giăng dây hoặc vẽ vòng trên mặt đất.
Trước mỗi trận
thư hùng, hai bên đều
lập bàn thờ tổ
tại đài võ, khấn vái. Sau đó, sư phu hoặc huynh trưởng mỗi bên lập bản
giao kèo, quy ước. Bên cạnh là hai chiếc quan tài để sẵn.
Trận thư
hùng giữa võ phái thần quyền
Thất Sơn
ở cù lao Ông Chưởng và võ phái Trà Kha ở Bạc
Liêu được võ sư Ba ở
Cao Lãnh, Đồng Tháp kể lại:
“Lúc đó, tôi 15 tuổi
vừa nhập
môn bái sư võ phái Thất Sơn
vài ngày. Sư phụ
tôi là Bảy Hớn.
Nghe mấy huynh trưởng kể lại,
mấy ngày trước, khi mọi người
đang luyện võ thì một người
gốc Miên xuất hiện
xin gặp sư
phụ. Người
này tên No Sa Dăm là môn đệ
của võ sư No Sa gốc Nam Vang đang mở võ đường
ở Bạc
Liêu. Họ nghe danh Thất Sơn
Thần quyền
đã lâu, nay muốn thí võ đài để học
hỏi. Sư
phụ tôi nhận lời.
Bữa tỷ
thí võ đài, bà con nghe tin chèo xuồng
kéo đến coi cả ngàn người. Theo giao kèo giữa hai sư phụ
thì, mỗi bên chọn ra 5 võ sỹ đấu
thành 5 cặp. Võ sỹ bên nào văng ra khỏi vòng vẽ, xem như thua. Võ sỹ bên nào đo ván, lưng chạm
đất, xem như thua. Võ sỹ bên nào đưa một
cánh tay lên trời
xem như xin thua. Đấu
không nghỉ giải lao, đến khi có người thắng kẻ
thua mới kết
thúc trận. Bên nào có người bị thương,
bị chết
tự lo liệu thuốc
men, chôn cất, không bên nào
được thưa kiện
ra Chánh quyền thuộc Pháp. Nếu bị
pháp luật truy cứu, bên này phải làm tờ bãi nại cho bên kia. Hai bên đấu với
nhau chỉ vì sỹ
diện môn phái chứ không mua bán, tranh chấp gì cả. Sư
phụ tôi lựa 5 đệ
tử giỏi
nhất ra đấu. Kết
quả, phía Thất Sơn
1 người bị gãy tay, 1 người bể be sườn.
Phía Trà Kha 2 người
gãy chân, 1 người bất tỉnh.
Thất Sơn
Thần quyền
có chiêu phá mã, còn phía gồng
Trà Kha thì có chiêu khóa tay vật.
Xem như hai bên bất phân thắng bại
hẹn sẽ
có dịp tái đấu. Sau đó cánh mạng tháng 8 bùng nổ, hai bên không có dịp gặp
lại nhau. Sau này nghe nói No Sa Dăm
đào tạo được
rất nhiều
thế hệ
võ sỹ giỏi.
Học trò của No Sa Dăm đào tạo được
những võ sỹ nỗi
tiếng sau năm 1975 như No Sa Long, No Sa Liên…”. Năm 1973, võ sư Ba có dịp
gặp lại
võ sư No Sa tại Sài Gòn. Lúc bấy giờ
No Sa là huyến luyện viên trưởng đoàn võ thuật Caqmpuchia dẫn đoàn võ sỹ Campuchia sang đấu võ đài do Tổng hội
võ thuật Sài Gòn tổ chức.
Sau này, vào khoảng
thập niên 60 thế kỷ
20, những cuộc
tỷ thí chết chóc không được tổ chức
nữa mà chỉ tổ
chức đấu
vọ đài theo luật thể
thao. Luật thể
thao quy định hai võ sỹ đấu
với nhau phải cùng hạng cân, mỗi trận
chỉ có 3 hiệp, mỗi
hiệp 3 phút. Võ sỹ bên nào cũng có săn sóc viên y tế đi theo và cuộc đấu
luôn có hội đồng trọng
tài chấm điểm.
Thời điểm
này, phong trào võ thuật
vùng miền Nam bộ như
có làn gió mới, nơi
nào cũng có võ đường
tên tuổi như
cồn: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy
Biển ở
Kiên Giang; Ba Hoằng
ở Long Xuyên; Tiểu La Thành ở Vĩnh Long. Nhiều võ sư tạo
được tiếng vang nhờ đào tạo được
những võ sỹ vô địch
trong các trận đấu võ đài. Đến tận
ngày nay, những võ sư ấy
vẫn còn được nhiều người
nhắc như:
Hai Diệp, Lê Bình Tây, Mười Nho, Nguyễn Mách, Cao Lý Nhơn, Út Dài, Phạm
Thành Long, Lý Huỳnh Yến,
Lâm Văn Có, Thiên Đường,
Đoàn Tâm Ảnh, Tần Hớn,
Vương Văn Quảng, Lâm Hổ Hội,
Lê Hông Chương, Mười Cùi, Từ Thiện,
Hồ Tường,
TRần Xil, Lê Đại Hoan, Minh Sang… rất nhiều.
Họ thường
tổ chức
thi đấu tại
Chợ Lớn
(quận 5) mang tính giao hữu với
các quốc gia trong khu vực như
Campuchia, Hồng Kong. Trong
những cuộc
đấu giao lưu ấy,
nhiều võ sỹ Việt
Nam đã tạo được
sự thán phục của
các võ sư, võ sỹ
nước ngoài. Báo chí thể thao dạo ấy
đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ. Võ sỹ Minh Sang (võ đường Minh Sang) nỗi tiếng
gan lỳ và ngọn quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn (võ đường
Denis Minh) có cú đấm
như điện
xẹt; Võ sỹ Xuân Quỳnh là “cây trụ đồng
của võ đường Kim Kê”… Những trận
thư hùng này đã khiến
các đối thủ
nước bạn nhớ
những tên đòn thế: “Bàn sa cước” của võ sỹ Nguyễn
bình; Cú húc chỏ
“hồi mã thương” của Minh Sơn; “Liên tiền
cước” của Trần
Nho…
Các nữ võ sỹ
Việt cũng tạo nên song gió như Hồ
Ngọc Thọ
(võ đường Từ Thiện)
vô dịch hạng
ruồi nhẹ;
Lân Ngọc Vân (võ đường Lâm Sơn Hải)
vô địch hạng
ruồi; Võ sỹ Xuân Liễu (võ đường Biên Hòa) vô địch hạng
ruồi.
Trong một trận
thư hùng giữa
võ sỹ Việt
với các võ sỹ Hong Kong là môn đệ của
Lý Tiểu Long Vịnh Xuân Quyền xảy
ra năm 1973 khiến
báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần
Mạnh Hiền
Việt Nam đã thắng tuyệt đối
bằng nốc
ao võ sỹ Châu Đạt Vinh Hong Kong bằng một
cú đá thần sầu
ở hiệp
ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở
ấy đã trở thành đại võ sư.
Nhờ những
trận đấu
võ đài ấy, các võ đường Việt Nam nườm nượp môn sinh đến đăng ký học võ. Thời điểm
đó, học phí mỗi tháng khoảng 700 đồng/học
viên. Chỉ cần
huấn luyện
100 võ sinh là sư
phụ có thể yêm tâm về cơm
áo gạo tiền
để chuyên tâm nghiên cứu võ học. Thời
điểm đó, chiếc xe Hon Da 67 còm măng chính hãng,
giá khoảng 15.000 đồng/ chiếc.
Bỗng dưng
thời hưng
thịnh của
võ học Việt
xẹp lép. Nhiều võ sư chạy
theo kế sinh nhai bỏ nghề.
“Loạn võ sư”
bắt đầu
manh nha phát triễn.
Nhiều môn phái không hiểu từ
đâu xuất hiện
như: Sát Tử
Quyền, Bạch
Long Sát Tử Quyền, Vô Biên Võ đạo, Nghịch Tất
Tử Võ phái, Cao Đài quyền pháp. Thậm chí một cơ
sở sản
xuất thuốc
sơn đông mãi võ cũng tự
sáng tác ra môn phái “Y võ” rồi
tự lu loa là võ Việt Nam cổ truyền…
Nhiều nước
đã tôn vinh môn võ xuất
sắc của
họ như
Indo có pencatxilat, Trung Hoa
có Thiếu lâm, Thái Lan có Maya… Còn Việt Nam, môn phái nào là Việt Nam võ đạo cổ
truyền chính hiệu? Điều
đầu tiên, có lẽ nên cấm tiệt
những kiểu
tự sáng tác vài bài quyền múa rối rồi
xưng danh Võ Cổ Truyền
Việt Nam kẻo làm mất mặt
những tổ
sư Việt
và hãy giữ lại những
tinh hoa của võ học Việt
có từ trăm năm trước.
Xin theo dõi tiếp
bài 29. dienbatn.

_______________
Nguồn:
sưu
tầm






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét