CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 25.
NHỮNG
NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ
phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN
MÔN. Đó là những tháng ngày vô
cùng vất vả,
trải nghiêm đủ Hỉ-
Nộ- Ái - Ố của
dienbatn . Cũng đã qua từ
lâu rồi , xin kể lại
để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ
và Đời sống
.
Thất Sơn
Thần Quyền
chính tông gồm 2 phần: Quyền và thuật. Quyền là phần "dương công" gồm những
thế võ cận
chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần "âm công" huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực.
Chỉ đệ
tử duy nhất được
chọn kế
thừa chưởng
môn mới được
sư phụ
truyền dạy
phần "âm công”.
Do có xuất xứ
từ vùng Bảy Núi linh thiêng nên người đời gọi
là Thất Sơn
Thần Quyền.
Môn võ này có 4 phần
luyện là tam đạo nhất
thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là tâm đạo, định
thần dưỡng
khí gọi là thể đạo,
luyện thân tráng kiện gọi
là quyền đạo.
Phần luyện
thứ tư
gọi là luyện thần.
Còn một truyền thuyết khác nữa về
nguồn gốc
của phái Thất sơn
Thần quyền
như sau : "Thất Sơn thần
quyền (TSTQ) do võ sư Trần
Ngọc Lộ,
sáng lập Trần
Ngọc Lộ
là đệ tử
dưới trướng của Phật
thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Vốn là người giỏi võ, lại đức
độ, võ sư Trần
Ngọc Lộ
không thể lập
giáo phái vì sợ mang tiếng phản
thầy, phản
giáo, nên ông lập
võ đạo , lấy
tên TSTQ đặt cho võ phái của mình
Đệ
tử TSTQ nhập môn ngoài học quyền
cước còn được học cả
đạo. Võ là để rèn luyện thân thể, sức
khỏe dẻo
dai, bảo vệ
chính nghĩa, giúp đỡ
kẻ yếu.
Còn đạo là đạo đức,
đạo lý sống ở
đời. Thêm vào đó, đệ tử
TSTQ còn có thêm niềm
tin rằng nếu
ra sức luyện
tập, đến
một lúc nào đó có thể luyện
thành “thần quyền”, có sức mạnh
siêu phàm có thể
“hô phong, hoán vũ”, có thể
1 đánh 10, thậm chí vài chục người.
Chính đức tin này đã thu hút rất nhiều
người tìm đến học
TSTQ. Tuy nhiên, không phải
đệ tử
nào cũng được học “thần
quyền”. Tương
truyền, chỉ
có người được chọn kế
thừa Trưởng
môn mới được
chân truyền “thần quyền”
để trấn
môn võ sư
Hoàng Bá (tên thật Trần
Kim Truyền), nhà ở cầu
Tầm Bót, P.Mỹ Phước,
TP.Long Xuyên. Ông chính là đệ
tử chân truyền cuối
cùng của võ phái TSTQ ở An Giang. Ông mở võ đường,
thu nhận đệ
tử tại
Long Xuyên, lấy tên là Hoàng
Bá.
Những
năm từ 1958 đến 1960, lò võ Hoàng Bá nhanh chóng
nổi tiếng
trong giới võ thuật miền
Nam, cả nước
và thậm chí khu vực Đông Nam Á qua các cuộc thượng
đài. “Hồi đó lên võ đài là phải ký giấy sinh - tử, 2 cái hòm (quan tài) được để sẵn
bên hông. Mặc dù người học võ không được phép đánh chết người,
nhưng vì quyền
cước không có mắt nên phải làm như vậy.
võ sư Hoàng Bá lấy
tên lò là Thất Sơn Võ Đạo,
thu nhận rất
nhiều đệ
tử. Đệ
tử cuối
cùng của võ sư Hoàng Bá là anh Phan Thanh Thuận, hiện
là huấn luyện
viên võ cổ truyền. Anh Thuận theo học tại
nhà võ sư Hoàng Bá từ
năm 1991-1994. Lúc này, võ sư
Hoàng Bá đã đóng cửa võ đường và Thuận là đệ tử
cuối cùng. Anh Thuận cho biết, những
thế võ anh theo học có rất nhiều
bài quyền cận
chiến hay như Mãnh hổ
tọa sơn,
Linh miêu đoạt thạch,
Tam sơn trấn
ải, Xí mứng, Phá xí mứng, Pha bốc bế...
"
Thất Sơn thần quyền là một trong những võ phái ra đời rất sớm ở vùng Thất Sơn (Bảy Núi, An Giang. " ( Trích từ Quá trình phát triển võ dân tộc của Phạm X Khuyến ).

dienbatn tại mộ Phật Trùm.
Có rất
nhiều tài liệu nói về xuất
xứ của
phái Thất sơn
Thần quyền
, nhưng theo thày Chàm thì có một số
điều chính như sau :
* Thứ
nhất : Đây là một võ phái của Việt
Nam , tiếp thu và phát triển những
tinh hoa về võ học và Huyền môn của nhân loại , nhất là của các hệ phái Huyền môn Nam tông.
* Thứ
2 : Có rất nhiều
tài liệu nói phái Thất Sơn
Thần quyền
xuất phát từ Trung Quốc. Nhưng
theo thày Chàm , điều này hoàn toàn không có cơ sở
vì tuy võ phái căn bản
dựa trên hiện tượng
cầu Thần
nhập xác, nhưng việc
này không chỉ có ở trung Quốc mà còn có ở hầu
khắp các phái Huyền môn trên thế giới.
Mặt khác các chữ bùa và câu chú của phái Thất Sơn
Thần quyền
đều là sử dụng
tiếng Pali hoặc săngkit , các chữ bùa hầu như
không xử dụng
chữ Hán mà chủ yếu
theo chữ Điển
vô vi.
* Thứ
3 : Thất Sơn
Thần quyền
ngay bản thân tên gọi của
nó đã chỉ ra xuất xứ
của nó. Đây là một môn phái không chỉ là võ học mà căn bản của
nó vẫn là Đạo học.
" Đệ tử
của Thất
Sơn không chỉ
được học quyền
mà còn học pháp, Quyền chỉ
là phương tiện để
dẫn pháp, chứ không phải để
đi đánh nhau ,Tất
nhiên lúc đánh vì mục
đích chính nghĩa thì cũng vô cùng huyền
diệu, một
đòn vào người, dù đối phương
không thấy đau lắm, nhưng
về nhà cũng đủ thối
da thối thịt.
Đệ tử
nhập môn, bao giờ cũng phải học
quyền. Nhiều người
học quyền
mãi mà chẳng thăng tiến về
tâm, về pháp nên cứ tưởng
là cứ giỏi
quyền là đã thành tựu.
Cao hơn
quyền, nhiều đệ
tử phát triển về
pháp. Pháp trong môn cũng vi diệu
là khó tin đối với quảng
đại quần
chúng. Nếu muốn
biết về
một người,
dù cách cả ngàn cây số, cũng có thể biết
người ấy đang nghĩ gì, có gặp sự
cố gì không. Pháp của môn có thể cầu
nắng thành mưa, có thể
cầu người
sắp chết
được sống.
Có thể
xin thần linh thổ địa,
đuổi trừ
tà ma, chữa người điên thành lành... Tất cả
những điều
này, người trong môn vẫn đang thực hành. Pháp thì cao, nhưng không phải
lúc nào cũng làm. Làm thế
có mà loạn. Lúc nào ra tay giúp người, lúc nào không, cái
gì đáng làm, cái gì không, mỗi
đệ tử
trong môn phải tự định
đoạt (nói những người
có khả năng thôi). Nếu không, đều có thể phải
trả giá. Để có pháp. không phải cứ
khổ công tu luyện hay đọc chú là được.
Tuỳ vào tâm đức
vào kiếp trước
của anh đã tinh tiến đến
đâu thì khả năng phát triển đến
đó. Điều này vô cùng quan trọng. Do đó, đệ tử
lâu năm trong môn không có nghĩa là người
giỏi. Giỏi
hay không, hoàn toàn phụ
thuộc vào tâm đức và sự khai mở từ
những kiếp
trước. Và vì phụ thuộc
nhiều vào tâm đức, nên có những tên tuổi ngày trước đã lẫy lừng,
mang tính huyền thoại, thì giờ, do làm nhiều việc
phạm, do làm nhiều việc
không có tâm đức, đã mất hẳn
quyền pháp, trở nên vô dụng. Cái sự khó trong khi tu tập trong môn là như vậy
nên tìm được đệ tử
chân truyền là cực hiếm.
Người
này hôm nay có thể
có tâm tốt, ngày mai có thể hỏng.
Mà cái khó nhất là nhiều khi sai mà không biết mình sai. Phạm lỗi
nhiều mà tự mình ko thể nhận
biết mà sửa chữa.
Hậu quả
nặng nhất
mà một đệ
tử có thể phải
chịu khi phạm lỗi
tất nhiên là bị đuổi
ra khỏi môn.
Nhẹ
hơn thì mất
hết quyền,
pháp. Khi sư phụ chọn
đệ tử,
là sư phụ
đã biết đệ
tử ấy
kiếp trước
đã tu tập đến
đâu, tâm đức đong được mấy thúng. “

Thất
sơn Thần
quyền chính là một môn Võ Đạo của
người Việt Nam được hình thành từ thế
kỷ 19 , do các Đạo giáo của vùng Thất sơn
( Bửu sơn
kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao đài, Hòa hảo...), dựa trên những sở
học về
Huyền môn của nhân loại , nhất là các phái Huyền môn Nam tông (Phật giáo nguyên thuỷ- Nam tông (Theravada) có bề dày lịch sử
rất lâu đời, sự
truyền thừa
được các sử gia thừa nhận
là không bị gián đoạn. Điểm
ưu việt
của nó là truyền bá đến quốc
gia nào vẫn giữ được
nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống
khác rất hiếm
có. Phật giáo nguyên thuỷ hiện
nay có mặt ở
những quốc
gia: Tích Lan, Miến
Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia,Nepal, Ấn Độ
v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất
trong truyền thống Nguyên thuỷ, chư
tăng tụng kinh bằng tiếng
Pali và tiếng bản ngữ
, tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của
bậc xuất
gia, chỉ ăn ngày một buổi,
không ăn phi thời.
).
Tuy cùng một
nguồn là Thất sơn
Thần quyền,
nhưng do quá trình truyền thụ
, tam sao thất bản mà hiện nay tùy theo vùng , miền mà môn phái Thất sơn
Thần quyền
rất khác nhau . Không chỉ nguồn
gốc của
môn mà ngay các thủ
tục, quy cách trong quá trình tu học cũng bị “tam sao thất bản”
rất nhiều
nên phổ biến
trong nhân gian những
thủ tục
khá rườm rà khi nhập môn, dẫn đạo
và thực hành công năng.
SỰ
TRUYỀN THỪA
CỦA PHÁI THẤT SƠN
THẦN QUYỀN.
Có nhiều
tài liệu nói về nguồn
gốc của
phái Thất sơn
Thần quyền
tại nhiều
nơi như
tại vùng Bảy Núi - An Giang, Huế, Bình Định, Quảng Trị
, Đà Nẵng ,Thái Nguyên, Hà Nội ....nhưng theo thày Chàm tất cả
những nơi
đó đều
có nguồn gốc
xuất phát từ khu vực vùng Bảy Núi - An Giang . Môn phái Thất Sơn
Thần Quyền
tôn Quán Thế Âm Bồ Tát là Tổ sư
và thêm 8 vị thần
đại diện
sư tổ
trong công tác dạy
các môn đồ. Các môn sinh
gia nhập môn phái thì phải: đứng
trước bàn thờ tổ
(Quan Thế Âm Bồ
Tát) xưng tên họ
và thề 9 điều
( Tùy theo các vị
sư phụ
chọn từ
9-55 điều trong các lời thề.
Mỗi câu thề là một
giềng mối
đạo đức
giúp tăng năng lực
tâm linh rất cao, tác động linh ứng rất
mạnh , vì vậy người
nào giữ được
những lời
thề đó sẽ
có hiệu quả
rất lớn
khi thực hiện
các phép thần bí )
:
1. Hết
lòng hiếu thảo
với cha mẹ
2. Không phản
thầy
3. Không phản
bạn, xem bạn như
anh em ruột thịt
4. Không phản
lại môn phái Thất Sơn
Thần Quyền
5. Không ỷ
mạnh hiếp
yếu
6. Không ham mê tửu
sắc
7. Không cưỡng
bách những người
đàn bà đã có chồng
con
8. Hết
lòng làm việc nghĩa
9. Không phản
đạo
"Nếu
con không làm tròn 9 điều
thề trên thì con sẽ bị
phanh thây làm muôn mảnh".
Ðó là 9 điều tâm niệm của
môn đồ Thất
Sơn Thần
Quyền.

Hiện
nay, truyền nhân duy nhất và cuối cùng của Thất
Sơn Thần
Quyền là võ sư Hoàng Bá, cư
ngụ tại
cầu Tầm
Bót, TP. Long Xuyên, tỉnh
An Giang. Đã hơn 75 tuổi, gần
20 năm nay, võ sư
Hoàng Bá đóng cửa võ đường, không thu nhận đệ
tử nữa.
Điều đáng tiếc là võ Sư Hoàng Bá, tuy là truyền
nhân nhưng không phải
là chưởng môn nên không lĩnh hội được
hết tuyệt
chiêu của Thất
Sơn Thần
Quyền. Ông cho biết, người
trưởng môn duy nhất và cuối cùng của võ phái, nắm giữ
tất cả
tuyệt chiêu là ông Đạo Ngựa
tu luyện ở
núi Sam, Châu Đốc.

Võ sư
Hoàng Bá chỉ là truyền nhân của một
bản sao Thất Sơn
Thần Quyền.
Vì vậy, ông chỉ lĩnh hội được
một số
tuyệt kỹ
thuộc về
phần “dương
công” của Thất
Sơn Thần
Quyền, chứ
không nắm không nhiều những
bí quyết về
phần “âm công”. Võ sư Hoàng Bá đánh giá: “Thất
sơn thần
quyền là một môn phái cận chiến
thực dụng,
chỉ hữu
ích trong chiến đấu thuở
gươm đao xưa. Người
võ sinh có những phương pháp luyện tập
dị biệt.
Vì bài quyền không có lời thiệu
nên bị tam sao thất bổn.
Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo
sự tự
tin, bình tĩnh. Trong chiến
đấu, sự
tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi”.
Thất Sơn
Thần Quyền
chính tông là một
phái võ đặc dị gồm
2 phần: Quyền và Thuật. Quyền là phần “dương
công” gồm những
thế võ cận
chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần “âm công” huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực.
Vì môn qui, người đệ tử
duy nhất được
chọn kế
thừa trưởng
môn mới được
sư phụ
truyền dạy
phần “âm công”. Tương truyền, võ sinh Thất Sơn
Thần Quyền
chính phái có tuyệt
chiêu gọi hồn
nhập xác. Khi giáp chiến võ sỹ chỉ
sử dụng
quyền thế
trong dương công để
tấn công đối phương.
Nếu gặp
đối thủ
lợi hại,
võ sỹ dùng huyền thuật
gọi hồn
một vị
thần giỏi
võ nhập xác vào võ sỹ trợ
giúp.”
“ Vào năm 1967, những
người cao niên sinh sống dưới
chân Núi Sam (Châu Đốc,
An Giang) vẫn còn thấy một
đạo sỹ
gầy, râu tóc bạc phơ,
tu luyện trong rừng sâu trên đỉnh núi. Hàng ngày, vị đạo
sỹ này cưỡi ngựa xuống
núi trao đổi lương thực với
người dân quanh vùng.
Vị
đạo sỹ
này rất kiệm
lời nên không ai biết thân thế, tên tuổi của
ông. Ông không bao giờ
rời lưng
ngựa. Điều
đáng quan tâm là, hình dáng ông trông rất
ốm yếu,
lại cưỡi
ngựa không yên cương. Dốc núi gập ghềnh
đá, ông phải có sức mạnh
phi thường mới có thể cưỡi
ngựa lên đỉnh xuống
vồ. Vì thế, người
dân địa phương
gọi đùa là ông Đạo Ngựa.
Một
lần dong ngựa xuống
núi đổi rau củ lấy
gạo, bắt
gặp một
toán cướp dùng súng uy hiếp người
dân, ông xuống ngựa can thiệp. Đó là lần đầu
tiên người ta thấy ông rời lưng
ngựa. Toán cướp thấy ông ốm yếu
xông vào toan đánh đập.
Không ngờ chỉ
bằng một
ngón tay, ông đã khiến
một tên cướp trợn dọc
mắt, ngã lăn bất tỉnh.
Tên cướp khác toan nổ súng. Ông rùng mình một cái rồi sau đó như điên loạn.
Ông bay vèo đến
cạnh tên cướp tước súng rồi vung chân múa tay đánh gục hết
những tên còn lại. Ông ung dung lên ngựa trở
về núi. Một ông già ốm yếu
đánh gục toán cướp khỏe mạnh
lại có vũ khí trong tay khiến nhiều
thanh niên thán phục.
Họ rủ
nhau lên núi tìm ông xin học
võ. Không ai tìm được
nơi trú ẩn
của ông. Tuy nhiên, có một người
thanh niên quyết tâm tìm ông
cho được. Người thanh niên này bò lên
đỉnh núi Sam tìm nơi ngồi
thiền lâm râm khấn: khi nào gặp được
sư phụ
mới chịu
xuống núi. Sau hai ngày chịu nắng
mưa, đói khát giữa
rừng sâu núi thẳm, người
thanh niên ấy ngất xỉu.
Khi tỉnh lại
thì thấy mình nằm trong một hang động. Kể
từ ngày đó, người thành niên ấy trở
thành đệ tử
chân truyền của Đại
sư Đạo
Ngựa. Ngoài Hoàng Sơn còn có một
tiểu đồng
tên Ba giúp ông Đạo
Ngựa nhang khói. Trong những ngày thụ đạo,
người thanh niên ấy mới
biết sư
phụ mình là đệ tử
kế thừa
trưởng môn Thất Sơn
Thần Quyền
của Nam Cực Đường.
Nam Cực Đường
của Đại
sư Bảy
Do lập năm từ đầu
thế kỷ
20 đào tạo nghĩa sỹ kháng Pháp. Năm 1917, quân Pháp
bao vây bắt Đại sư
Bảy Do đày ra Côn Đảo. Năm 1926, tạo nhà lao Côn Đảo, Đại
sư Bảy
Do cắn lưỡi
cho máu chảy đến chết.
Học được
gần 1 năm, đã hết phần
“dương công” chuẩn bị
bước sang phần “âm công”, người thanh niên ấy xin về nhà giỗ cha. Giỗ cha xong, khi trở lại
núi Sam, người thanh niên
không tài nào tìm được
hang động cũ. Nghĩ rằng sư
phụ muốn
lẩn tránh mình, người thanh niên ấy đành lại tạ
hư không rồi
xuống núi. Từ ngày đó cũng không ai còn thấy bóng dáng ông Đạo Ngựa
một lần.
Ông mất hút giữa rừng
núi thiêng. Người thanh niên ấy chính là lão võ sư Hoàng Sơn.
Năm 1960, trong một trận
thi đấu tranh giải võ thuật khu vực Đông Nam Á, võ sỹ Hoàng Sơn đại
diện đoàn Việt Nam đấu với
võ sỹ Kh’mer tên là Nosar. Vào hiệp một,
chỉ sau vài chiêu giao đãi, võ sỹ Nosar xin dừng trận
đấu vì nhận ra đồng môn. Hóa ra, Nosar cũng là đệ tử
của Thất
Sơn Thần
Quyền. Năm 1970, ông Nosar trở thành Phó Chủ tịch
Hội đồng
võ thuật Campuchia đã đào tạo ra những võ sỹ “thần
quyền” nổi
tiếng Campuchia như Nosar Long, Nosar Lieng. Hóa ra Nosar là truyền nhân mấy đời
của ông Cử Đa ở
Tà Lơn.
Theo dõi tiếp
bài 26. dienbatn.
_______________
Nguồn:
sưu tầm




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét