CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG . BÀI 5.

Sau ngày luyện thành công Pháp môn mới, Thầy Chàm phóng lửa hỏa thiêu toàn bộ trang trại của mình, sang tạm biệt vợ chồng ông thày Bảy và các học trò, một mình lên đường đi tìm lão thày Chà và để rửa hận. Tất cả hành trang của ông lão chỉ bao gồm một tay nải đựng quần áo, vật dụng, chút tiền độ đường và cặp đoàn cổ kiếm bất ly thân. Dĩ nhiên, khuất vô hình đi cùng với ông là hơn một chục Đệ tử mới, có khả năng thật kinh hoàng (Phần sau này, chính ông thày. Chàm kể lại cho tôi và vợ chồng thày Bảy nghe về chuyến đi của mình) . Sau khi tạm biệt mọi người, ông thày Chàm liền đi viếng mộ của mẹ con cô Lan ở chân núi Cậu. Hai ngôi mộ được chôn sát nhau, dựa đầu vào chân núi Cậu, chân đạp ra phía lòng hồ Dầu Tiếng. Thấm thoát từ khi cậu con trai chết cũng đã mấy năm trôi qua, vẻ hoang vắng đìu hiu của khung cảnh càng làm cho trái tim của lão nhức nhồi. Cẩn thận bày bông, nhang, trái cây, giấy tiền vàng bạc, một xấp bánh tráng lên mộ của hai mẹ con, ông thày Chàm thì thầm một mình khấn khứa, cặp mắt của ông lúc này vừa hào hùng, vừa bi ai, vừa căm phẫn. Tàn nhang, lão đốt tiền vàng bạc cho hai mẹ con, và tưới cả một chai rượu đế lên đám tro, và vái mấy vái hai mẹ con, lão lầm lùi cất bước lên đường. Gần một năm, lăn lộn khắp Sài Gòn, Lục tỉnh, rồi tiến dần lên miệt Châu đốc, Sóc Trăng, An Giang, tới tận mũi Năm Căn, hình bóng của lão thày Chà và vẫn bặt vô âm tín. Đã rất nhiều lần, lão phái đám Thiên Linh đi lùng kiếm khắp các ngõ ngách, nơi mình đi qua, vẫn không thấy gì cả. Một ngày, Lão dừng chân tại đỉnh núi Két của Châu Đốc. Nơi đây là một nơi hội tụ của rất nhiều thầy bà về tu tập, luyện phép. Trên đỉnh núi Két, có một vuông đất khoảng hơn trăm m2, tục gọi là Sân Tiên. Tương truyền ông Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (Phật Thầy Tây An), đức Huỳnh Phú Sổ và một vài vị tiếng tăm khác cũng thành chánh quả tại sân Tiên này. Gần sân Tiên còn có giếng Tiên, là một hốc đá tận đỉnh núi nhưng không bao giờ cạn nước. Từ khi lên núi Két, hàng ngày lão lê la đi khắp các hang động của các vị tu Tiên, tu Núi hỏi thăm về tung tích lão Chà . Thời gian này, hầu như tất cả các hang động trên núi Két đều có chủ, thôi thì đủ các môn phái, đủ các pháp môn. Ở lưng chừng núi có một ngôi chùa nhỏ do một vị sư già trụ trì. Nói là chùa, song thực chất cũng chỉ là một hang đá được tạo bởi một tấm đá cực lớn nằm gác lên mấy viên đá khác, tạo thành một mái hiên khoảng 50 m2. Nhà sư trụ trì dùng đá và xi măng xây một bức tường ở phía sau và một bàn thờ Tam Bảo dựa vào vách núi. Giường ngủ của nhà sư là một viên đá lớn bằng một manh chiếu, bằng phẳng và mát lạnh (Thời gian sau này, tôi và Thanh Pali có tới nơi này ghé thăm, nhưng vị sư đó đã mất, chỉ còn một vị Đệ tử ruột khoảng gần 60 tuổi trụ trì thay Thầy, mộ vị sư già được táng ngay bên cạnh chùa). Chùa tuy ở lưng chừng núi nhưng không hề thiếu nước, bởi có một đường ống dẫn nước từ đỉnh núi xuống một bể chứa tha hồ dùng. Vị sư trụ trì vốn theo dòng cổ Mật, lúc đó cũng khoảng trên 80 tuổi. Nơi này chỉ có sư trụ trì và một người Đệ tử ở cùng hàng ngày trì chú, kinh kệ. Một bữa, thày Chàm ghé thăm chùa và được sư trụ trì đãi cơm chay và đàm đạo suốt một ngày. Nhân đó, ông thày Chàm mới kể cho Trụ trì nghe về câu chuyện đời của mình và mục đích công việc đang tìm kiếm . Trầm ngâm hồi lâu, nhà sư già mới bảo thày Chàm: "Bần Đạo có thể giúp thầy tìm được tung tích ông thày Chà , cái đó khó gì, song bần đạo nhìn vào ánh mắt của Thầy, bần đạo thấy sát khí bốc ngùn ngụt .Bần Đạo cũng nhìn thấy ánh mắt sau đó một cuộc huyết chiến kinh Thiên động Địa, tai kiếp, tai kiếp ... Hận thù nên cởi chứ không nên gút lại làm chi Nghiệp báo trùng trùng biết khi nào dừng ". Nghe vậy, thày Chàm vội quỳ xuống chắp tay xá vị sư và nói: "Bạch Thầy, gần một năm nay, con lặn lội khắp nơi để tìm tung tích Lão ta mà vẫn biệt tăm. Con vẫn biết hận thù nên cởi chứ không nên gút lại, song con đã thề trước vong linh hai mẹ con cô Lan, với Thầy Tổ quyết trừ hại cho dân, tiêu diệt lão thày Chà nên mới có ngày hôm nay . Trước bàn thờ Tam Bảo, con xin phát nguyện khi con làm xong việc lớn rồi, sẽ nguyện làm Bồ Tát Đạo, cứu giúp chúng sinh đến hơi thở cuối cùng . Nhà con có nghề thuốc rất hay, con sẽ dùng nghề thuốc để cứu dân chúng Thày tin. ở con đi ."Ngó đăm đăm vào mắt thày Chàm, nhà sư thở dài và nói: "Thôi, âu cũng là duyên nghiệp, tối nay, đúng giờ Tý, Thầy lại đây tôi sẽ giúp cho." Thầy Chàm vội phủ phục xuống đa tạ nhà sư. Ngoài kia, xa tit cánh đồng lúa của vùng Bảy Núi, chợt như ứng hồng và đó đây phảng phất một mùi hương cốm mới.
Suốt
buổi chiều
ngày hôm ấy, thày Chàm
tranh thủ đi thăm các hang động có các vị Thầy
đang tu luyện trên núi Két.
Ngọn núi này từ chân lên tới đỉnh
chỉ vài trăm mét, nhưng chứa
đựng rất
nhiều hang động to nhỏ đủ
cỡ. Đặc
biệt là trong các đám cây rậm rạp
mọc trên núi, có vô số các loại cây Ngải, mọc
um tùm. Ngọn núi này cũng
có nhiều loại
Ngải khó kiếm ở
nơi khác, là có lẽ
do khí hậu thích hợp và ngọn núi rất dốc
nên ít có người qua lại hay làm rãy trên núi . Trong các
hang động, thày Chàm đã gặp được
một vài người bạn học
từ thời
thanh niên, tưởng như không bao giờ
có thể gặp
mặt được
nữa. Đặc
biệt trong chuyến đi ngao du chiều nay, thay Chàm lại được
gặp một
vị Sư
Huynh từ hơn
30 năm trước. Đang mải mê ngắm đám cúc Vạn thọ
vàng rực trước
cửa một
khe núi hẹp, bỗng nghe tiếng kêu mừng rỡ
gọi tên mình, thày Chàm ngước lên và nhận ra vị Sư
Huynh của mình. Người này đang theo phép tu
Tiên ở trên núi Két, sống hoàn toàn bằng nước
suối và những bông cúc Vạn thọ.
Nhìn hình dáng mảnh
mai, sương hạc với
bộ râu quá cằm của
Sư Huynh, thày Chàm không khỏi bồi
hồi, bất
chợt thở
dài. Mới nhiêu đó đã ngoài 30 năm có lẻ. Hai huynh đệ kéo nhau vào trong một cái hang khá rộng ngồi
tâm sự chuyện
đời. Nguyên do người Sư Huynh của thày Chàm, từ khi bị phạm
tội và bị đuổi
ra khỏi bản
môn, đã lưu lạc lên miệt Thất
Sơn - Châu Đốc
này. Sau nhiều ngày dãi dầu với
cuộc sống
cùng cực, Sư
Huynh được
một vị
Tiên Ông trên Núi Ông Cấm
chỉ dạy
phép tu Tiên và đã chọn
làm nơi này noi tu luyện. Cũng rất may mà Sư Huynh vừa qua thời gian bế môn nên hai huynh đệ mới
có dịp gặp
nhau tại nơi
này. Hai huynh đệ
mải mê nói chuyện tới
khi trời tối
hẳn lúc nào không hay. Một cây đèn chai được thắp lên, ánh lửa nhỏ
xíu chỉ đủ
soi sáng cái mặt bàn bằng đá hơn một
thước vuông. Sư Huynh cho thấy Chàm biết một
bí mật của
vùng núi này, một
sự thật
mà chỉ những
người tu non tu núi này ở vùng mới biết
lâu năm. Đó là bí mật
về sự
trợ giúp của các Thầy Tổ
vô hình trên Tây An cổ
tự. Từ
thị xã Châu Đốc nhìn về hướng
Tây thấy một
ngọn núi cao khoảng 248 m gọi là núi Sam cách Thị xã 5 km. Đến chân núi Sam, nhìn lên chân núi
là thấy một
ngôi chùa mang dáng dấp
của những
ngôi chùa Ấn Độ có kiến trúc hài hòa với cảnh
trí thiên nhiên, tạo
một vẻ
đẹp lộng
lẫy đó là chùa Tây An Cổ Tự.
Chùa Tây An cổ tự do một
vị quan Triều Nguyễn đời
Minh Mạng (1820) là Tổng đốc
Nguyễn Nhật
An xây dựng theo lời nguyện của
ông khi được Triều đình phái đi Cao Miên. Theo lời nguyện này, nếu ông đi thành công, khi về sẽ
dựng một
ngôi chùa thờ Phật tại
chân núi Sam. Cất
chùa xong, ông thỉnh
vị hòa thượng đầu tiên là Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu là Hải Tịnh
đến trụ
trì. Năm Thiệu Trị thứ
7 (1847), chùa lại
thỉnh thêm một vị
hòa thượng nữa tên là Đoàn Minh Huyền, pháp hiệu là Pháp Tăng đến trụ
trì. Vị hòa thượng sau này ngoài việc tu hành còn có tài làm thuốc trị
bệnh cho nhân dân rất hiệu
quả nên sau khi ông mất, đồng
bào suy tôn hòa thượng
với danh hiệu là Phật thầy
Tây An và danh hiệu
này vẫn được
gọi đến
ngày nay. Phật Thầy tây An chính là người cho ra đời Đạo
phái Bửu Sơn
Kỳ Hương nức tiếng
cả miền
Nam thủa trước.
Điều đặc
biệt là hệ thống
các bàn thờ Tổ các môn phái được bố trí thành một vòng tròn khép kín, chỉ những
bậc tu hành trên núi mới biết
được sự linh ứng và dòng khí rất mạnh
của từng
ban thờ. Trong Tây Am Cổ tự
có hầu hết
tất cả
những Tổ
của Huyền
Môn miền Đông Nam Á này. Khi viếng thăm, các Thầy thường
phải đi theo đúng một quy luật nhất
định và hầu hết
được Tổ về
chứng. (Dienbatn đã được huynh Thanh Pali hướng dẫn tỉ
mi, và sau khoảng 30 phút ngồi Thiền
tại đây, đã thấy được
vô số điều
lạ).
Thấm thoắt
đã bước vào 11 giờ đêm. Núi Két im lim phủ bụi
trong màn sương. Cái lạnh thấm
dần vào từng thớ thịt
. Bốn phía xung quanh chỉ có màn sương trắng và hình chiếc mỏ
Két lừng lững
nổi giữa
trời cao. Ông thày Chàm đề khí, phóng như bay giữa các bậc đá hiểm trở
tiến về
phía ngôi chùa. Lúc này trong chùa, chỉ
còn vài ngọn đèn để leo lét, và bóng ông thay
Chùa núi im lim trên vách. Trước
mặt thày Chùa là một tấm
gương đồng
sáng lóng lánh, những
ánh đèn chiếu vào tạo nên bóng như những
người đang nhảy múa. Thầy Chùa ra hiệu cho ông thày Chàm vào thắp hương
cung thỉnh Tổ thày . Sau những lễ
nghi của bản
môn cung thỉnh Tổ thấy,
cung thỉnh "Tây phương Phật Tổ
Thích Như Lai, Bồ đề
Tổ sư,
36 vị Lục
Tổ Lục
cụ, Chuẩn
Đề, Bồ
tát Quan Âm, Già Lam chân Đế,
9 phương Trời, 10 phương Phật, Tả
Quan Châu - Hữu Quan Bình, Đấu chiến
Thắng Phật,
Bạch Hổ
sơn động
... Ngọc Hoàng Thượng Đế, chư
vị Phật
tổ, Linh Sơn Thánh Mẫu,
Nguyên Nhung chúa Tướng,
Cửu Thiên Huyền Nữ
, Cửu vị
Tiên nương, ba ông Quốc Vương
Đại
Thần ...." , Thày Chàm ngồi sắp bằng
bên ông Thầy
Chùa , giảng cho ông thày
Chàm về tấm
gương đồng:
"Đây chính là một
chiếc Kính Đàn, quà tặng của
Tổ thày ta. Nó có nguồn gốc
từ tận
Tây Tạng xa xôi Nếu chỉ
luyện để thay Đàn tràng, người luyện chỉ
cần luyện
trong vòng 49 ngày với
chú Chuẩn Đề
là thành công . Riêng chiếc
Kính Đàn này, ta đã luyện
liên tục ròng rã 1000 ngày. Nguyên tắc của
luyện Kính đàn là trong thời gian luyện, không được rời khỏi
nơi tu luyện và không để bất
cứ ai nhìn vào Kính Đàn Khi luyện. xong, hàng ngày phải dùng bao vải đỏ
bao kín và không được
xê dịch Kính Đàn. Vì một lý do bất kỳ phải rời
chỗ luyện
đi qua đêm là phải
làm lại từ
đầu . Chính vì vậy, trong gần 3 năm qua, ta không hề bước
chân khỏi chùa này. Ngày nay, thành tựu viên mãn, ta lần đầu
xử dụng
để giúp thày. Việc tìm kiếm kẻ
thù hay bất cứ một
người nào đối với
Kính Đàn này chỉ
là việc rất nhỏ
so với toàn bộ công dụng của
nó . Tuy nhiên , tôi cũng cần
phải nói trước với Thầy
rằng cuộc
đời của
Thầy sẽ
thay đổi rất
nhiều sau khi nhìn vào Kính Đàn này
Thày suy nghĩ kỹ
chưa. Thầy
Chàm vội phủ
phục xuống
tạ ơn
thầy Chùa và hứa rằng
có không ân hận gì cả, mọi
việc đã suy nghĩ kín kẽ lắm
rồi. Nghe xong, thay Chùa gật đầu
lặng lẽ
và tới bàn thờ gióng lên một hồi
chuông . Tiếng chuông âm
vang, ngân xa trong mà đêm tĩnh mich.. Ngồi
xuống theo kiết già, thày Chùa bắt ấn
và bắt đầu
đọc Đà Ra Ni. Cứ sau mỗi câu chú là một lần
thày đổi thế
kiết Ấn
. Khoảng 30 phút sau thày Chùa mới vào bài chú chính: CHUẨN ĐỀ
. Sau. khoảng 3 chuỗi Chuẩn
Đề, trên mặt Kính đàn bắt đầu
xuất hiện
những ảnh
hình của một
vùng xa lạ . Lúc này thày
Chàm dùng hết. tinh lực nhìn vào Kính đàn và chẳng mấy
chốc hình bóng lão thày Chà hiện ra rõ dần, rõ dần. Ông thày Chàm thấy thấy
Chà đang ngồi luyện công bên một đầm
nước lớn, hai bên có cặp rắn
vàng có mạo đỏ hộ
đàn . Xung quanh chỗ
Lão ngồi là vô số cây cột, treo lủng lẳng
những đạo
Phù ẩn thân cực lớn
- Thảm nào mà kể cả
Thiên Linh Tử tù của ông thày Chàm cũng không thể phát hiện ra . Nhìn kỹ địa hình xung quanh một lúc lâu, ông thày Chàm đã nhận biết
được vị trí của khu vực đó, một khu vực quen thuộc mà lão đã từng đi qua tại Tây Ninh. Lão chợt cười
khan một mình. Tiếng tụng
Đà ra ni nhỏ
dần và ông thày Chùa đã sang phần hồi
hướng công đức . Hình ảnh trên Kính Đàm mờ dần,.
mờ dần
rồi từ
từ biến
mất.
Một hồi
chuông nữa lại
ngân lên vang vọng
trong đêm thanh vắng,
tiếng chuông như xoáy tròn và ngân dài, vang xa, thành những đợt
sóng tập tit xa. Tiếng chuông này không rời thành tiếng mà liên tục, trầm
hùng, đợt sóng âm này đè lên đợt sóng âm kia, làm cho ta có cảm giác như đứng
trước biển đang có hàng ngàn đợt sóng trào dâng. Thầy Chàm vội ngẩng
nhìn lên, thấy ông thày Chùa
chỉ dùng dùi chuông, xoay quanh miệng một
chiếc chuông lớn. Tay của ông cầm và xoay rất nhẹ
nhàng, nhưng muôn ngàn đợt
sóng âm thanh từ
chiếc chuông cứ vang mãi, ngân xa. Tiếng tụng
chú Dược sư lại
cất lên trầm hùng: Namo Bhagavate
Bhaisajya-guru-vaidurya-Prabha-rajaya Tathagataya Arhate. Samyak-sambuddhaya.
Tadyatha, Om Bhaisajye Bhaisajye Bhaisajya samudgate Svaha. Trên Kính Đàn lúc
này hiện lên hình ảnh của
ông thày Chàm ngồi
phủ phục.
Nhìn kỹ hình ảnh của
mình, ông thấy thày Chàm ở trước
vùng bụng của
mình có một quầng ánh sáng xanh lè, chiếm hầu
như hết
cả khoang bụng. Ngạc nhiên, ông quay sang thày Chùa có
ý dò hỏi. Như
một vị
bác sĩ thuần thục, thày Chùa cầm một
cành trúc, chỉ vào khoang bụng của
thày Chàm trên gương
và nói: Đây chính là vùng hai lá gan của Thầy.
Hiện tượng
có ánh sáng xanh như
thế này chứng tỏ
rằng thày đã vào gần cuối
giai đoạn 3 của
bệnh ung thư gan. Có lễ thời
gian gần đây, Thầy bắt
đầu hay có những cơn
đau ở khu vực này không phải? Thầy
Chàm vội phủ
phục xuống
đất và nói: Bạch Thầy,
đúng là khoảng gần 2 tháng gần đây, tôi thường có những đợt
nhồi đau tại vùng bụng. Nhưng cũng chỉ
là nghĩ là những tổn thương
do tuổi tác và những cuộc
đấu võ mà ra, ai dè ... Tôi vẫn viết
sống chết
có số, nhưng
tâm nguyện của
tôi chưa hoàn thành, tôi không thể
nào nhắm mắt
được. Thày xem có cách gì
cứu giúp cho tôi được không ? Thầy Chùa trầm ngâm một hồi
lâu và rằng: Lẽ
ra tôi cũng chẳng muốn nói với Thầy
làm chi, nhưng đêm qua, có hai mẹ con người đàn bà đến cầu
xin cứu Thày lúc tôi đang tụng kinh. Mà lạ quá, đứa con trai là một vong hồn không đầu, còn người đàn bà xưng tên là Lan. Họ
năn nỉ, khóc lóc dữ quá nên tôi đã siêu lòng, nhận lời
chữa trị
cho thày. Muốn chữa khỏi
bệnh của
Thầy, tôi phải dùng công lực mấy năm tu luyện để
hóa giải. E rằng sau này, chân Khí của tôi cũng tổn hao rất nhiều.
Cứu một
người bằng xây mười tòa tháp. Lại nữa
, tôi đã được sự đồng
ý của đang Vô Vi rồi. Thầy
phải ở
lại trên núi này 100 ngày, tôi cam
đoan với Thầy
sẽ hết
sạch bệnh.
Thầy Chàm vội quỳ xuống Thày Chùa định lậy, nhưng
ông thày Chùa vội đỡ
lên mà rằng: Tôi với Thầy
âu cũng là duyên nghiệp,
đừng cảm
ơn tôi làm chi. Có cảm
ơn thì hãy cảm
ơn các đang Vô Vi trên sân Tiên kia kìa. Thầy
Chàm ngước mắt lên nhìn về phía sân Tiên trên đỉnh núi, những đám mây mờ đục
đang trôi qua, bỗng
như có muôn ngàn ánh sáng rực
rỡ, huy hoàng.
Xin theo dõi tiếp
bài 6 - dienbatn.
_______________
Nguồn: sưu tầm

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét