CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 7
Bà Bảy từ Tốn kể tiếp cho mọi người nghe về phương pháp dựng trận đồ và phá trận. Theo truyền thuyết kể lại, phương pháp này Khổng Minh - Gia Cát Lượng học được chính từ vợ của mình. Vợ Khổng Minh tuy hình thể rất xấu, vừa lùn lại vừa hoa rỗ nhưng về nhân tướng lại là một hình thể cực tốt. Bà là người tinh thông nhiều môn như Thái Ất, Độn Giáp, Tử Vi và là một đệ tử chân truyền của một cao nhân ẩn sĩ vùng Động Đình Hồ. Chính vị này đã chỉ dạy cho bà cách dựng và phá những trận đồ ngày ấy. Sau này, bà truyền lại cho Khổng Minh và những trận pháp do Khổng Minh dựng vang tiếng cả ngàn năm. Thực sự việc xây dựng một TRẬN ĐỒ vì mục đích gì đi chăng nữa, người chủ trận phải hiểu tường tận cách bố trí trận pháp. Ngoài việc xác định rõ vị trí của Huyệt kết ở đâu, hướng của Long Nhập thủ như thế nào trong Long nhập thủ , Thiên Môn - Địa hộ ở đâu, Tính chất Âm - Dương, Ngũ hành của Khí Huyệt như thế nào, người bố trí trận đồ phải rất giỏi về Ngũ Tử Khí Long (Phận biệt các loại Khí Hỏa Khánh, Không hư, Bảo Châu), phải thành thạo các thuật Toán an Ngũ Thân, Lộc, Mã, Quý, Tứ cát, Tam Kỳ , Bát Môn, an các Thiên Can, Địa Chi lên Bát Quái Đồ. Những thuật này liên quan mật thiết đến Thuật tính Thái Ất, Độn Giáp.
Việc
xác định được
cửa SINH của BÁT QUÁI ĐỒ, tuy khó khăn nhưng chưa
thấm vào đâu so với việc
tính toán thời gian Huyệt mở
tại cửa
SINH. Việc này ngày xưa các cụ
tính rất giỏi
nay tiếc rằng
đã thất truyền. Hiện
nay chỉ còn nguyên lý của nó thông qua việc tính toán THỜI CHÂM - TÝ NGỌ Lưu
Trú VÀ LINH QUY BÁT PHÁP.
Tuy nhiên theo nguyên lý "Nhất Bản
tán vạn thù - Vạn thù quy nhất và bổn '" Đời - Đạo,
ÂM - DƯƠNG ĐỒNG
NHẤT LÝ "Chúng ta hoàn toàn
có thể dùng thời châm để tính thời gian Huyệt mở.
Ví dụ: Tý - Ngọ LƯU
CHÚ là hai tự trong 12 Địa Chi, chỉ về
thời gian. Hàm ý quá trình ÂM - DƯƠNG biến hóa, tiêu, trưởng của thời
gian. Trong một ngày thì giờ Tý (23 - 1g) ở nửa
đêm là lúc Âm thịnh
nhất (cũng là lúc Dương bắt đầu
được sinh ra . Giờ Ngọ
(11-13 g) vào lúc giữa
trưa, lúc Dương
thịnh nhất
(Cũng là Âm lúc mới
sinh ra).
Trong một năm thì tháng Tý (Theo âm lịch kiến
Dần hiện
nay là tháng 11) là tiết
Đông Chí, là thời
kỳ Âm thịnh nhất
nhưng cũng là thời
kỳ Dương được
sinh ra. Tháng Ngọ
(Tháng 5 Âm lịch) chứa tiết
Hạ Chí là thời khí Dương cực thịnh,
nhưng đồng
thời cũng là thời kỳ "Nhất Âm sinh".
Hai từ LƯU
- CHÚ có nghĩa là chỉ vào sự chu lưu, tưới
rót của Khí trong các Kinh, Mạch.
Thuật ngữ
Tý - Ngọ lưu
chú, có hàm nghĩa: Khí thịnh, suy, lưu động
trong các Kinh mạch
(Hay Long mạch cũng vậy) theo nhịp điệu
của thời
gian chuyển biến. Tý - Ngọ . LƯU
CHÚ PHÁP là một phép Thời châm, chọn Huyệt
Khai, Mở theo giờ thịnh,
suy (Huyệt mở
hay đóng) của Khí trong Kinh
mạch (Hay Long mạch). Nó sử dụng
66 Huyệt Ngũ du của 12 chính Kinh làm Huyệt chủ.
Phép Tý - Ngọ lưu chú cũng như
các phép LINH QUY BÁT PHÁP, PHI ĐẰNG
PHÁP đều là những phép THỜI điều
trị từ
thời cổ
xưa. Người
xưa cho rằng, nắm
được các phương pháp này thì nghệ thuật
chữa bệnh
hay làm Phong thủy,
dựng trận
được nâng cao tột bậc,
có hiệu quả
hơn hẳn,
tác dụng nhanh và chính xác hơn, ví như
chèo thuyền gặp
nước xuôi .. nhất là với những
ca cấp tính.
Trong bài "Luận
về phép Tý Ngọ Lưu
Chú" - Từ Văn Bá (Từ Thị)
viết: "Nói phép Tý - Ngọ Lưu
Chú là nói cương nhu tương phối, Âm - Dương tương hợp, Khí Huyết tuần
hoàn, giờ Huyệt
mở , đóng "(Theo Châm cứu đại
thành của DƯƠNG
KẾ CHÂU).
Cương, nhu ở đây là nói về Tạng
phủ, Kinh mạch. Âm - Dương ở đây là nói về Can - Chi phối với
Âm - Dương. Nội dung chủ yếu
của phép Thời châm này bao quát: Thiên Can, Địa Chi, Âm Dương, Ngũ Hành, Tạng phủ,
Kinh lạc cho đến các Huyet Tỉnh, Vinh, Du, Nguyên, Kinh, Hợp ....
Ngày phối Kinh, giờ phối
Huyệt. Mỗi
ngày (có thể) có một đường
Kinh chủ đạo
đồng tính Âm Dương - Ngũ hành với nó. Ngày Kinh chủ đạo
bắt đầu
và kết thúc vào giờ đồng
Can với ngày lịch. Dương
Kinh dẫn Khí đi trước, Âm Kinh dẫn Huyết
đi trước. Ngày Dương (Can, Chi), giờ Dương
Khai (mở) huyết
dưỡng. Ngày Âm, giờ Âm Khai Huyệt Âm vì Dương gặp Âm thì đóng lại. Gặp
các trường hợp này thì dùng nguyên tắc tương
hợp như
Giáp (1) hợp Kỷ
(6) .... và nguyên tắc
"Bổ Huyệt
con tả Mẹ" để giải
quyết. Phần
lý thuyết tuy đơn giản
như vậy,
song khi bước vào thực tế
thật là vô cùng nguy hiểm. Tuy khó khăn như vậy,
nhưng chiếc khóa nào cũng có chìa để mở
cả. Chúng ta chỉ cần
tra chìa đúng là chiếc
khóa dù phức tạp đến
mấy cũng sẽ nhẹ
nhàng mở ra. Theo tôi, trận của
lão thày Chà tuy có vẻ
hiểm học,
song Lão ta dù học
được một ít về Trận
pháp, song vì không hiểu
được Quái lý, nên trong Trận pháp này bày ra nhiều điểm
yếu. Chúng ta hoàn toàn có thể phá trận này một cách dễ dàng
DIENBATN THĂM BÀ TRÚC LÂM NUONG.
Ông Bảy
từ nay đến giờ
vẫn hết
nhìn bà Bảy lại nhìn sang ông thày Chàm vẻ như
là lẫm, bỗng
ông nói buột miệng: "Tôi cũng có được nghe giảng qua về trận
đồ Bát Quái trong Huyền môn, thậm chí khi biến trận
, nó có thể xoay theo 360 độ số
Trời, lúc đó có hằng hà sa số kiểu
trận biến
thiên không ngừng theo tháng
năm, ngày giờ . Ngoài ra , vì
có hai vòng thuận
nghịch theo chiều của
Tiên Thiên và Hậu
Thiên Bát Quái, nên nó giống
như hai bánh xe quay ngược chiều nhau, lúc đó vào được cửa Sinh chẳng khác nào ta phải bắn
một mũi tên xuyên qua các cây nan hoa
của hai bánh xe quay ngược chiều nhau Khi dựng. trận kiểu
này, cũng phải cần đến
20 người có công lực thâm hậu nữa,
trong mỗi vị
trí của các phương Bát Quái, phải có một người
ngồi trụ,
như vậy
hai vòng Tiên Thiên và Hậu
Thiên hết 18 người, ngoài ra, còn phải có hai người bên ngoài chỉ huy trận và phát công khởi động
Trận đồ
nữa .Việc
này khó kiếm, quá ta đâu ra
người cho đủ đây.. "
Bà Bảy từ
tốn nói: "Ông thật khéo lo xa. Việc tính toán thời gian mở cửa
Sinh của trận,
tôi đã có sẵn một bụng
đây rồi ...(Ông Bảy nhìn sang cái bụng lép kẹp của
bà Bảy bật
cười) . Việc khó nữa là kiếm người
có nội công thâm hậu, đủ
sức chịu
dựng sự
vận động
của Trận
đồ cũng có cách rồi, ông quên những người
bạn của
chúng ta rồi sao? ".
Ông Bảy nghe như vậy
chợt trút được gánh nặng trên vai, thày Chàm cũng vẻ mặt
rạng ngời.
Nguyên là vùng đất
Tây Ninh này là nơi
xuất phát của Cao Đài Đại Đạo
từ mấy
chục năm trước, các cao thủ tụ
về đầu
quân rất nhiều.
Tuy nhiên vì một lý do riêng,
chỉ có phái THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO là có khả năng bày bố những
trận kiểu
đồ này, họ đã tổ
chức những
cuộc đi hành hóa giải khai Huyệt đạo
ở rất
nhiều nơi.
Ngoài ra còn một số
môn phái khác như:
Tân Chiếu Minh, Tổ Tiên Chính Giáo, Vô Vi pháp,
Ayasanta, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa .... cũng có rất nhiều
các cao thủ tu tập ở
trên núi Bà, núi Heo, núi Phụng,
núi Cậu. Ông bà Bảy đều
có những mối
quan hệ thân thiết với
các nhóm đó. Nhanh nhẹn,
ông Bảy phân công Ông và thay Chàm lần lượt
đi đến các giáo phái nhờ giúp đỡ (tất
nhiên là với tư cách cá nhân), bà Bảy
ở lại
nhà trông coi lũ đệ
tử và tính toán Trận đồ.
Bây giờ muộn
rồi, mai hai người sẽ đi sớm.
Một nồi
cháo nhím được dọn ra, thịt nhím trắng và thơm hơn
cả thịt
gà, ngọt ngay. Vừa ăn, vừa khề
khà chén rượu, cả nhà vui như vừa
vượt qua được một thử
thách khó khăn. Màn đêm đen kịt
bao phủ khắp
nơi,vẳng
từ xa xa tiếng chó sửa ma vu vơ .

TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG.
Trong suốt
gần một
tháng sau đó, Thầy
Bảy và Thầy Chàm lần lượt
đi viếng thăm các Đạo hữu
thân thiết mà từ lâu lắm rồi
họ không gặp được.
Đầu tiên hai ông tìm đến thăm người bạn thâm giao nhất của
hai ông là một người theo phái THIÊN KHAI
HUỲNH ĐẠO của
Giáo phái Cao Đài. Phái THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
là một nhánh của Giáo phái CAO ĐÀI, nhóm này thường rất giỏi
về nhận
Điển và bày bố TRẬN
PHÁP. Người bạn của
hai ông là một chưởng quản của
NAM THÀNH THÁNH THẤT.
Đây là một người
đàn ông cao lớn, có khuôn mặt hết
sức cởi
mở, cuốn
hút. Vừa bước
vào Thánh Thất, hai ông nghe
một giọng
đọc thơ
Điển vang vọng:
" Tâm sẵn Ngọc minh há kiếm ngoài,
Chuyển luân Hoàng đạo Cao Đài hiện.
Chơn truyền Thượng hạ ban từ thử,
Sự nghiệp Đế Thiên đã định bày ".
Thầy
Chàm chợt buột
miệng : Hay, trong Tâm đã sẵn có Ngọc, lẽ
nào lại phải
đi tìm kiếm Ngọc quý ở ngoài thân. Tìm cầu chánh giác phải quay về nội
Tâm. Như vậy,
bài Điển của
Ngọc Hoàng Thượng Đế ta vừa
nghe, như muốn
khuyến cáo cho chúng ta nghĩ lại, cái gì nên bỏ và cái gì nên mang theo cho cuộc hành trình sắp tới.
Thật ra, đời sống
của con người ở cõi tạm cái này, xét lại một
kiếp người
thì đâu còn được gì? Thật sự,
lẽ cùng cực của
Đạo là mức tuyệt
đối. Mà thật là lạ - Đã tuyệt đối
thì không còn nói gì đến
những điều
thương, sự ghét. Nhưng cũng phải
thấy rằng,
cuộc sống
trong thế gian này chỉ là trường đối đãi, do vậy sự
từ bi, bác ái được nêu lên chỉ là việc thường
để chạy
lòng. Ông Thầy Bảy cũng buột miệng
nói: lạ ghê, chúng ta chưa hề
nói mục đích của chúng ta đến đây mà ngài chưởng quản NAM THÀNH THÁNH THẤT như
đọc
thấu ý nghĩ của chúng ta.
Từ trong Thất, một
bài thơ nữa
vang ra:
" Nhìn xem mấy dải phù vân,
Chợt tan, chợt tụ, bao lần tụ tan.
Xuân qua, Xuân lại Trần gian,
Chỉ người giác ngộ huy hoàng đón Xuân.
Dầu trong cõi tạm Hồng trần,
Trọn gìn Tâm Đạo thì Xuân vĩnh tồn ".
Ông Thầy
Chàm lại hơn
nho nhỏ: Sao mấy bài thơ này giống
Điển những
lời vị
sư già trên Núi Két ta dạy
thế nhỉ.
Hai người đang định bước
tiến về
phía Thất thì một chú Đồng tử
mặc đồ
trắng cầm
một tờ
giấy ra đưa cho hai người và bảo: Thầy
dặn tôi trao cho hai vị tờ
giấy này, bởi Thầy
tôi đã nhập Thất, không thể tiếp
các vị được.
Trên tờ giấy
trắng là một bài thơ viết
bằng mực
Tàu, chữ như
Rồng bay - Phượng múa:
" Đời thấm thoát qua cuộc bể dâu,
Ham vui chỉ chước cuộc mua sầu.
Lập thân muốn tránh đường mưa gió.
Tìm Đạo nương mình vững kiếp sau.
Rừng Thiền trở gót mới ung dung,
Nhàn hạ riêng vui cảnh bá tùng.
Lao lực thế tình chi xạo sự.
Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.
Cung đàn chờ khách cận song thu,
Năng mến Đạo màu chí Trương phu.
Biển khổ với người thuyền gặp lúc,
Đeo đẳng Thế sự chỉ mua sầu.
Tách bến sông mê thuyền tất sóng.
Lọc lừa nghiệp quả kẻ có duyên.
Trương buồm Hạnh - Đức xuôi chiều gió,
Đưa khách phồn hoa lánh nèo phiền ".
Ông Bảy
than rằng: Có lẽ sư
huynh này muốn ta dẹp bỏ
thù hận đây? Ý ông như thế
nào. Thầy Chàm ngó mông lung ra phía cánh rừng xanh thăm thẳm phía trước mà không trả lời.
Xin theo dõi tiếp
bài 8 - dienbatn.
_______________
Nguồn: sưu tầm



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét