CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 32.
PHẦN
IV.MÔN HỌC
ĐẦU TIÊN VỚI THÀY BẢY TÂY NINH.
Môn học
đầu tiên mà ông thày Bảy dạy
cho tôi là pháp môn phái Trà Kha. Thày giảng
giải cho tôi rất tỷ
mỷ về Nguồn Gốc
Phái Trà Kha.
" Các hệ phái thuộc miền Nam của Việt Nam gồm có phái Trà Kha, Lỗ Ban, Năm Ông, Thần Quyền Thất Sơn, Mẹ Sanh vv...
Thường
hay được
giới
Huyền
Môn gọi
chung là Nam Tông để
phân biệt
với các phái miền Bắc Việt Nam.
Hệ
phái thuộc
Nam Tông tại
miền
Nam chủ
yếu được truyền thừa theo kiểu truyền khẩu, và các đạo sĩ thường hay ẩn dật ở những nơi hoang vu ít
người
lui tới,
đơn cử như vùng
Thất
Sơn là
nơi hội tụ của rất nhiều đạo sĩ, các hệ phái Nam Tông sử dụng cách truyền pháp là Khẩu Truyền cho nên tài liệu về các phái này hết sức là ít ỏi, gần như là
không
có,
1 phần
cũng vì sự
kiêng kị
của các phái là không muốn các Phù Chú của Tổ mình bị lan truyền ra ngoài, họ sợ làm vậy sẽ mang tội, ngày nay thời đại đã thay đổi những chuyện Phù Chú Huyền Bí rất ít người tin tưởng, người theo học cũng chả còn bao nhiêu, trong
khi thực
tế thế giới huyền bí vẫn cứ hiện diện trong đời sống chúng ta, hàng ngày,
hàng giờ,
mà vẫn
chưa
có
1 lời
giải
thích nào thỏa
đáng.
Xin thưa với các bạn là 1 chữ Bùa, 1 câu chú, các cụ ngày xưa đã
phải
đúc kết
và học
hỏi thậm chí giữ gìn hết sức cẩn thận từ đời này sang đến đời khác, ngày nay tôi
nghĩ là với
tình trạng
như
hiện
nay, người
theo học Pháp
chả
còn là bao nhiêu, sớm
hay muộn
gì các chữ
Bùa các câu chú cũng sẽ
bị thất truyền đi, bởi vậy vì muốn giữ gìn văn hóa cha ông
nay tôi xin chép lại
các phép này, chữ
bùa và câu chú trong sách được
lấy từ các tài liệu chép tay mà tôi may mắn có được, ở đây tôi xin chép rõ
theo nguyên văn, những
chữ
bùa tôi biết
sẽ có thêm phần chú giải, còn không tôi sẽ để nguyên bản, tôi xin nói rõ để các bạn nghiên cứu và tìm hiểu về phù chú biết vậy."( Phần tài liệu của Tantric).
CẢNH
BÁO : Các tài liệu
trong loạt
bài này các bạn
không nên tự
luyện
tập nếu không có Chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.
Căn Bản Của Phù Chú Nam Tông .
Các pháp thuộc
hệ Nam Tông khác xa với các Pháp Bắc Tông, Nam Tông không chú trọng nhiều đến
Thủ Ấn,
khi học Nam Tông cần nhất
phải có thầy điểm
đạo, cấp
sắc, khi học bất
cứ 1 phái nào đều có Tổ của
phái đó, các phái đều
có Kinh Cầu Tổ, Sắc
Tổ Truyền,
các phép lớn còn cần những
Âm Binh để trợ giúp cho, nếu không có thầy điểm
Đạo , cấp
Sắc thì Tổ nào, âm nào biết mà theo giúp đỡ, về
căn bản tu luyện bên các pháp Nam Tông thì người học thường
phải luyện
Bùa theo các phép sau đây.
Quán Tưởng .
- Nghĩa là vẽ
1 chữ bùa ra sau đó Quán Tưởng đọc chú, luôn luôn tưởng chữ Bùa đó trong đầu cho đến khi có cảm giác chữ Bùa nhập vào cơ thể
mình, khi tưởng ra chữ Bùa có cảm giác nó ngay trước mắt mình, thậm chí có trường hợp chữ
Bùa lóe sáng, xoay chuyển
theo ý nghĩ của người luyện.
Các Cách Luyện.
- Khi họa
1 chữ Bùa thường phải nín hơi, chữ
bùa đó ngắn, dài, đều phải
nín hơi, định
tâm thần vào đó, khi khoán bùa cũng vậy.
Hình thức
vẽ Bùa có sự quy định như
sau, các chữ Bùa thường có vòng khuyên xoắn ốc,
bình thường là Bùa nam sẽ xoắn
7 vòng, Bùa nữ là 9 vòng, dùng
chung cho 2 phái là 1,2..... số
vòng sẽ thay đổi theo số lẻ
như 3,5,7,9,12,21,36 tuy nhiên thường không bao giờ vượt
quá 36 vòng.
( Lỗ
Ban Sát – Mạch
Chí Nhân 1974 )
Cách Luyện Âm Dương .
Luyện
Âm Dương :
Sáng luyện mặt
trời mới
mọc, chiều luyện
mặt trời
khi ở ngọn
cây, nóc nhà, đêm có trăng thì luyện
trăng, không trăng thì chọn
1 ngôi sao nào sáng nhất
khởi luyện.
Cách Luyện Đèn .
( Còn gọi
là dòm đèn cầy
Phái Lỗ
Ban Sát )
Khi luyện
đèn có 2 cách luyện:
*1 là vẽ chữ Bùa lên 1 mảnh giấy
sau đó đặt sau nó 1 ngọn đèn cầy, sau đó dùng mặt tập
trung ngó vào nó và dùng mắt
vẽ theo nó, tùy loại bùa mà thời gian nhanh hay chậm, thường
thời gian luyện sẽ
là 1 cây nhang, và luyện
49 hoặc 100 ngày, đến khi trong đầu thấy
chữ Bùa đó lóe sáng hoặc giả
khi nhìn bất cứ vào chỗ nào là ta đã có thể cảm
giác chữ bùa hiện lên ở chỗ
đó, ( các thầy giỏi khi nhìn vào cốc nước
là đã khoán đước chữ Bùa vào cốc nước
rồi )
* 2 là cách luyện
đèn khác là lấy 1 cái đèn như cái đèn bão bên ngoài có 4 mặt
kính, trước tiên thắp 1 ngọn đèn cầy vào trong sau đó dùng nến vẽ
ở bên ngoài kính, rồi dùng phấn, vôi, son vẽ bùa lên mặt kinh đó và ngó luyện.
Các cách luyện
khác gồm có vẽ bùa bằng ngón trỏ, ngón chân cái, và vẽ bằng
lưỡi, nhưng tựu
chung đều là phải thuộc
chữ bùa và làm sao cho chữ Bùa phải có tâm mình và nhập vào bản thể
của mình, tương tự như
người tu Mật Tông quán chữ Om vậy.
Thông thường
các chữ để
trị bệnh
chỉ cần
7 ngày là thành, còn các loại
chữ Bùa khác như hộ
thân, Chiêu Tài, vv.....mất
thời gian hơn và có luật
định riêng.
Dụng
Bùa.
Khi dụng
bất cứ
1 loại bùa nào nên lưu ý về
thứ mình dụng, trị tà, thì phải theo nghi thức trị
tà, chữa bệnh
phải xem rõ căn bệnh, chọn phù thích hợp, nhưng
quan trọng nhất
phải cầu
Tổ, hội
phép, vẽ bùa, niệm chú, khi niệm thường
nín thở niệm
chú.
Theo thầy
TDT thì khi luyện
các phép bên Nam Tông nếu
là Miên, Lèo, Xiêm, lục,
cần chú ý như sau
Chú Niệm Hương (Nam Tông)
Bud' thăn bô chăng
Thơm
măn
bô
chăng
Son khăn bô chăn
Ten năng bô chăng
Sanh lăn bô chăn
Kích năn ka rô mí .
(Đốt
3 cây hương chấp trước
trán tập trung niệm 3 lần
trước khi công phu bên Pháp
cũa Nam Tông )
Những
chữ thường
gặp trong trường phái này như : Bud' Thăn = Phật , Thơm Măn = Pháp , Son Khăn = Tăng . Ắ
Rặc Hăn = A La Hán , Ề hế
hoặc Ê hí = Sắc Lịnh
. Mặc mặc
= cấp cấp
, Cà Ra Mây = tập
hợp , Xắ
Xây = chứng minh .
Trước
tiên khi muốn thỉnh mời
bất cứ
vị nào để luyện
phép nên cần đọc câu chú sau, thiếu câu chú này không có sự linh diệu nào cả ( đặc
biệt với
các bạn nghiên cứu không có 1 hệ phái nào chính tông cả )
Nắc
mô ta sắc
, phắc
cá wá to , á rá há to , sam ma sam Bud' ta sắc
(3 lần , lạy 3 lạy) .
Trong các hệ
phái Nam Tông người
thầy thường
cấp cho các đệ tử
các lá Sắc như
Sắc Hộ
Thân, Sắc Triệu
Thần, Sắc
Triệu Âm Binh.
Sắc
Hộ Thân :
khi gặp những
tà ma, hoặc những vị
Thần lớn
quá không hại đến thân thể.
Sắc
Triệu
Thần :
để kêu gọi các vị thần
tướng theo mình.
Sắc
Triệu
Âm Binh : để
kêu gọi âm binh đi theo giúp đỡ hoặc
các thầy sẽ
nuôi âm để giúp việc sai khiến.
36 VỊ TỔ CHÁNH.
PHÁP DANH HỘI
Nam mô Tây Phương Phật Tổ Thích Ca Như Lai.
Bồ
Đề Tổ Sư.
36 vị Lục Tổ Phật
Chuẩn
Đề Bồ Tát.
Quan Thế Âm Bồ Tát.
Ông Già Lam Quan Đế.
Chín phương trời. Mười phương Phật .
Tả
ông Quan Châu. Hữu
ông Quan Bình.
Đấu
Chiến
Thắng
Phật.
Bạch
Hổ Sơn Động.
Nam Mô Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Chư
vị Phật Tổ.
Ba ông Quốc Vương Đại Thần.
Cửu
vị Tiên Nương.
Vong hồn sư ông.
Sống
cứu thế trợ dân. Vãng về chầu Phật Tổ. Cảm ứng chứng minh cho đệ tử ......... cầu Ông Tổ ........... nhập xác chửa bệnh, xuất quyền, luyện phép).
PHÁP DANH 36 VỊ
TỔ CHÁNH.
1./
XÁ XÂY KÀ RA MÂY
2./ NO THĂN NGÂN
3./ NO NẠC
NĂNG
4./ HẾ
XA SẤP
5./ PHÁCH GIÁ BÀ TÁ
6./ NÁ MÁ BÀ TÁ
7./ NÚM NÁ BRUM
8./ NÁ Á MO RI
9./ NA SA PA
10./ NÁ CÀ XA DÁ MẮC
MẮC
11./ NÍT KHÉT BĂNG CÀ RA MÍ
12./ Ề
HẾ NẮP
CẶP BANH NAM PHỜ RA MẮC
MẮC
13./ Ề
HẾ SA MA THÍ Á
14./ Ề
HẾ A CÚ SA GIÁ MẮC MẮC
15./ Ề
HẾ Ế
Á TẾ GIÁ MẮC MẮC
16./ Ề
HẾ KHEO QUĂN TẾT MĂNG KỆ RÊ THA
17./ Ề
HẾ PÚT THỐ PÚT LÀ MANH TUA MẮC MẮC
18./ PÚT THỐ
KHAI NĂN SĂN TUA MẮC
MẮC
19./ Ề
HẾ MÊ BỜ
RÂY CÔ MA VĂN MẮC
MẮC
20./ Ề
HẾ PÚT THỐ ĐUM BỜ RÂY CÔ MA DĂN MẮC MẮC
21./ THÓC THỊA
QUĂN SĂN SÓC CĂN
22./ ẮC
CÀ RA ĐUM TĂN SĂN LĂN Á THÍ Á THÁ MÍ
23./ Á HĂN BĂN SẾ
TA SA LA VĂN SA MAO
24./ Á MÊ MÍ CĂN ÔNG PHÚC CHẤC Ề
HẾ
25./ Ề
HẾ CA RA MÂY TỐ TA TÊ TIN DĂN ÔNG PHÚC CHẮC Ề
HẾ
26./ Ề
HẾ NA RA MO MẮC MẮC
27./ Ề
HẾ MẮC
HUẤN SUNG Ắ HUẤN
SUNG Ú HUẤN SUNG
28./ Ề
HẾ MÍ TẾ
CHỀ TẾ
BẾ TẾ
CĂN
29./ ÔNG CÀ RA MÍ NÍT KHÉT BĂN CÀ RA MÍ MẮC QUAN TÂY
30./ CÀ RA KHA KHA KHÁ KHÁ
31./ PÚT THỐ
MA HĂN SĂN TUA MẮC
MẮC
32./ KHÁ KHÁ KHA KHA CÀ RA
33./ Ề
HẾ Á SA NGĂN MẮC MẮC
34./ Ề
HẾ NẮC
MÔ PÚT THÊ DẮC
35./ PÚT THÔ BÔN RÁP BRÂY MẮC MẮC
36./ ÔNG MẮC
ĐẶC CĂN ĐẶC CĂN ĐÁT THÔ MÔN SÔN CĂN QUAN CÔNG
MẮC MẮC
THÍ Ắ.
Còn một bản khác ghi các vị Tổ như sau :
cầu
36 vị trang tổ chứng:
-1-bili
2-núsê
-3-no tho ngan
-4-tế
sa
-5bề
mắc
-6-săn khê
-7-da tô
-8-a sa thá
-9-a quê săn
-10-bạch
hổ
-11-lục
cham
-12-lục
chi
-13-lục
nha rây
-14-lục
cà chui
-15-a sà lam
-16-ngủ
hổ
-17-nha thô
-18-nha bênh
-19-ba lưu
-20-ná ba nặc
-21-but no má
-22-no nặc
hăn
-23-bi sa tha
-24-tăc đà bà
-25-lưu
quan chơn
-26-cám rừng
-27-thần
hưu thánh
-28-thần
hoàng
-29- a chàm
-30-bửu
da đà bửu
-31-buôl thá
-32-á sa ngăn
-33-ná cà xa dá
-34-nha rây
-35-bí sa tha
-36-bi nha rây.
-Cầu
chứng luyện mau thành:
Trời
trên,Trời
dưới,Phật tổ,Phật thầy, mẹ Quan thế âm ,5 sư ,6 tổ,Lục tổ-Lục Mun-Lục Xiêm hiệp-Lục Lèo-ông 5, ông 6, ông
7-Trời
Phật
Thánh Thần-ông
trạng
mình-cho con luyện
phép siêu xuất
giúp đời
.
Mỗi
đệ tử
theo học đều
có 1 vị tổ
theo hộ mạng.
Sau khi đọc Pháp danh hội người
thầy dùng nhang khoán bùa số 6 vào người của đệ
tử và 1 số nghi lễ khác, rồi cho đệ tử
đọc mời
chư Tổ
về luyện
võ.
Trên là phần
giới thiệu
cơ bản
chung chung của các pháp thuộc hệ
phái Nam Tông .
PHÁI TRÀ KHA .
Môn phái Trà Kha hiện
ở Việt
Nam rất ít người nắm rõ bởi phái này không phát triển rầm
rộ như
các môn phái khác như Lỗ
Ban, Năm Ông Thần
Quyền, người
biết về
phái này và theo học
cũng không có nhiều
cho nên về tài liệu cũng như nguồn
gốc rất
ít người nắm rõ, cũng như tất
cả những
môn phái thuộc hệ Nam Tông ( theo cách gọi của
giới Huyền
Môn) các phái Huyền
Thuật thuộc hệ
Nam Tông tại Việt Nam thường không có 1 dòng truyền thừa
chính thức mà thường là lai tạo hoặc
truyền khẩu,
1 người học Huyền
môn thường học rất
nhiều phái khác nhau mà tất cả
các phái này đều cũng không thuộc hệ
chính tông truyền
thừa cho nên việc truy tìm về gốc
của 1 phái là rất khó, thậm chí có rất nhiều
truyền thuyết được
truyền miệng
ra, sau đây tôi xin chép về
nguồn gốc
của phái Trà Kha theo 1 thuyết mà có rất nhiều
người hiện nay cho là đúng với gốc
phái.
Về
mặt tôn giáo thường hay có rất nhiều
chuyện hoang đường được thêu dệt ra môn phái Trà Kha cũng không
ngoại lệ
này. Về gốc
phép có 1 thuyết như sau :
Phái Trà Kha có nguồn
gốc từ
Ấn Độ
sau đó được truyền vào Thái Lan theo hệ Tiểu
Thừa Phật
Giáo, Phái này nằm
trong gốc Phật
Giáo, khi xưa Phật Tổ
khi còn mang xác tục
của mình đi giảng đạo,
ngài di chuyển trong những nơi
hang sâu cùng cốc, khi ngài đi giảng đạo
thì gặp đủ
thứ những
chuyện gian truân như sự
thù hận, ganh ghét, chém giết của
loài người cho đến những
khó khăn khi gặp thú dữ, ác quỷ, khi đó Thượng Đế tức là ông trời thấy
vậy mủi
lòng thương xót mới sai 3 vị thần
tướng xuống để
giúp đỡ đức
Phật làm tròn sứ mệnh
tu thành đạo và cứu vớt
chúng sinh, ba vị
thần tướng
đó đội lốt
rắn và khi ẩn khi hiện luôn theo sát Đức Phật,
nhưng vì Đức
Phật có lòng từ bi thương xót luôn cả những
kẻ gian ác có lòng hại mình, cho nên mỗi khi 3 vị thần
tướng ra tay trừng trị
là kẻ ác là Đức Phật
lại cầu
xin Thượng Đế tha lỗi cho họ, nghĩ vậy Thượng
Đế không biết làm sao vì Đức Phật
quá nhân từ, Thượng Đế liền
ra lệnh cho 3 vị Thần
Tướng phải truyền cho Đức Phật
các phép để giữ mình, 3 vị tướng
liền trao cho Đức Phật
phép thần thông làm cho ngài khi gặp chuyện thú dữ, kẻ
ác, đâm chém làm hại
mà thân thể không có 1 vết xước
nhỏ, ba vị tướng
lại uốn
mình thành những hình kì lạ và Đức
Phật chép lại gọi
là Bùa, 3 vị truyền lại
cho Phật những
câu Thần Chú và Phật gọi
là Kinh, bởi vậy nên Phép Trà Kha mới có hình bùa như rắn
vậy, pháp Trà Kha thường vẽ bằng
son đỏ trên giấy vàng, bởi khi xưa 3 vị
tướng uốn mình trên đất vàng.
Phái Trà Kha thờ
thần rắn
gọi là NaGa, phái này còn có 1 hệ ở
bên Thái Lan là hệ
phái gốc, còn được gọi là Xiêm, thực tế
khi truyền vào Việt Nam mới có tên là Trà Kha ( lấy theo tên ấp Trà Kha ở Bạc
Liêu ) các phép của
Xiêm và Cambot thường
du nhập vào Việt Nam qua những ông thầy người
Việt gốc
Miên, Chà, sau đó các thầy
người Việt được
truyền lại,
về phái Trà Kha có những điều
căn bản và những pháp rất phổ
thông nhiều người biết như
sau.
Các Điều Căn Bản Về Phép Trà Kha.
Căn bản
của người
luyện phép Trà Kha cần phải
hội đủ
5 bài Kinh và Chú gồm
có : Kinh Tam Giáo, Chú Thỉnh
Tổ, Chú Hội Phép, Chú Gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện các bài chú này thường được thầy cho kèm theo chữ Bùa để luyện
hàng đêm, phép Trà Kha cũng có những
cách thức luyện
tương tự như
các phái Nam Tông khác đó là Đọc
Kinh , Đọc Chú Thỉnh Tổ,
Chú Hội Phép và Quán Tưởng bùa.
Kinh là gì ?
Kinh tức
là các câu Thần chú, các bài
kinh chủ yếu
theo ngôn ngữ PaLi, Kinh khác
Thần chú ở chỗ
khi đọc có thể cho lưỡi chạm vào răng, Kinh thường đọc đầu
tiên để bắt
đầu làm 1 phép gì đó, có những phép mà Kinh có luôn chức năng là Thần Chú nếu như
chữ Bùa đó không có Thần Chú đi kèm thì có thể lấy
Kinh mà thay Thần
Chú, nhưng tất
cả đều
phải có quy tắc và cách dùng rõ rệt, điều
này do thầy truyền thụ
chỉ bảo
mới nắm
rõ.
Chú là gì ?
Cũng giống
như Kinh Chú là những ngôn ngữ bí mật
rất khó dịch nghĩa, khi chuẩn bị
làm 1 phép nào đó cần
phải đọc
Kinh, vẽ Bùa sau đó niệm chú, khi niệm Chú thì lưỡi không được chạm vào răng.
Bùa là gì ?
Bùa là những
kí tự bí mật,
thường được vẽ bằng
son trên giấy vàng, phái Trà
Kha thường vẽ bùa uốn lượn
như rắn,
các Bùa được vẽ theo lối xoáy vòng khuyên từ 1- 7 vòng thậm chí nhiều hơn,
tùy vào công dụng mỗi
lá Bùa, người khi đã thấu hiểu
được quy tắc hoặc
thuộc hàng cao thủ có thể tự
chế và vẽ
Bùa mới, hầu
như Phái Trà Kha ở
Việt Nam đều dùng các lá Bùa chế do sự
va chạm giữa
trình độ các Pháp với nhau cho nên cùng 1 công dụng nhưng
Bùa của Việt
Nam và Xiêm cũng có sự
khác nhau, bản thân câu chú
và kinh cũng vậy, do truyền thừa
không chính tông nên bị
tam sao thất bản rất
nhiều, tuy nhiên về nguyên tắc Huyền
Môn quan trọng nhất vẫn
là thành tâm và tin tưởng,
bởi vậy
mới có chuyện 1 người chưa hề
học qua về Huyền
Môn nhưng vì quá thành tâm và thù ghét kẻ
khác mà đã vẽ 1 đạo bùa rồi dồn
hết tâm lực vào trù ếm kẻ
kia, dĩ nhiên trong Huyền
Môn sự thành tâm chỉ chiếm
50 % những việc
tu luyện và được thầy chỉ
dẫn vẫn
quyết định
sự thành công.
Cầu
Tổ Là Gì ?
Cầu
tổ là 1 hình thức như
lên đồng
cốt, người
học phải
thành tâm tin tưởng
mới cầu
Tổ được,
về các hệ phái Nam Tông rất chú trọng việc
cầu Tổ
bởi các hệ phái này chủ yếu
là nhờ Tổ
giúp đỡ hay làm phép gì đó đơn cử
như Phép Gồng
Trà Kha, Võ Bùa, các phép này họ
chủ yếu
là nhờ Thần
Lực của
Tổ về
nhập xác để đánh võ hoặc chịu
gồng, vì với xác phàm thì khó có thể chịu
được những xung lực như
dao chém không đứt
hoặc đánh võ chịu đòn, tất cả
đều nhờ
thần lực
hoặc sự
nhập xác của Tổ
bởi vậy
nên người học các phép này cần kiêng cữ để
cho cơ thể
không bị ô uế,
như vậy
các Tổ hoặc
thần linh mới nhập
xác được, hoặc phép không bị mất.Tuy
nhiên cầu Tổ
không phải ai cũng có thể làm được nếu không nắm rõ cách thức, tế
lễ, niệm
kinh cầu, hoặc
giả phải
có sự truyền
thừa.
Phái Chà Kha xuất
xứ từ
Ấn Độ
và đã truyền vào Thái Lan
nhiều năm rồi, phái này thờ Thần
Rắn còn gọi là Naga (cho nên những nét Bùa của Chà Kha uốn lượn
như rắn).
Căn bản cho người luyện Phép Chà Kha thì phải hội
đủ 5 bài Kinh Chú, bao gồm: Kinh Tam Giáo, Thỉnh Tổ,
Chú Hội Phép, Chú gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện, và cộng thêm10 chử Buà của 10 Vị Tổ
trong bài Thỉnh Tổ (cho Thầy mỗi
đêm luyện và uống). Buà Phép của Chà Kha rất nhạy
bén và công dụng sài cho trăm
việc như:
thư ếm,
chửa bệnh,
trục tà, lên đài đấu, sên dầu thơm
ăn nói, buà chú thương, gồng, .v.v.,
KINH HỘ
TỔ 1 :Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam
Hanh Phanh, Cam Mành Mảnh,
Cam Mây Nghanh, Cam Manh Nganh, Cam Sắc
Xi, Cam So Rẹc, Cam Chuốt, Cam Phược.
KINH HỘI
TỔ 2 : Bra ti ít sắc nặc
– Bra sao ti ni phịt
nặc – Bra chôm sắc sắc
nặc – Bra xây tha na mặc nặc
– Bra chôm bry rặc
nặc .
KINH HỘI
PHÉP:
Công dụng
của bài hội phép, ngoài luyện ra còn có thể sên buà và dùng cho những chử
buà Chà Kha mà không có chú kèm theo. Đây chỉ
là căn bản cho người nhập môn luyện pháp Cha Khà, còn biến hoá và sử dụng
thì nhiều lắm.
Bờ
Ri Ti Ti Tích Nặc,
Bờ Ri Tích Ti Na Nặc, Phắc
Cu Bờ Rích Nặc, Sắc
Phịch Phổ
Nặc, Ô Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Manh Manh Lơn.
Kiêng Kị Khi Học Phép Trà Kha.
Phép Tra Kha có nguồn
gốc Phật
Giáo nhưng sự
kiêng kị không quá khắt khe như Phật
Giáo, cũng giống như các hệ
phái thuộc Nam Tông khác học phái Trà Kha cần kiêng các thứ sau.
- Khế,
Ngò Om,
- Cá Không Vảy
- Các Vật
Thuộc Hệ
Bò Sát
- Trâu,Ngựa,
Chó, Rắn, Rùa.
Tại
sao lại kiêng các thứ đó ?
Các thứ
như Trâu, Chó là những
thứ thuộc
hàng hôi tanh người
học phép không nên ăn, và còn 1 điều nữa
theo như người
xưa truyền lại
đó là con Chó nó có đủ
4 thứ Trung, Tín, Lễ, Nghĩa chỉ thiếu
đúng chữ Nhân, theo tục truyền Trâu,Ngựa, Chó đều là con người khi chết mắc
tội phải
đầu thai làm Trâu, Ngựa,Chó trả nghiệp
cho người, cho nên giết nó tội cũng ngang giết người,
tục xưa
có câu : Kiếp Sau Sẽ Làm Thân Trâu (Ngựa ) Chó để đáp đền, bởi
vậy nên mấy tay nhậu hay kêu là ăn mấy thứ
này đen là vậy, bởi giết
nó là mang tội, mang nghiệp, nên phải trả
ngay, có người chịu quả
báo nhãn tiền là vậy, trong Lục Đạo
Luân Hồi Đồ
của Phật
Giáo cũng có chép cảnh
kẻ ác khi chết kiếp
sau đạo vào làm súc sinh cũng có vẽ hình Trâu, Ngựa, Chó. Bởi vậy
người học phép chớ nên ăn mấy con này mà mang tội.
Con Rắn
và Khế thì tại sao kiêng đó là vì Rắn thuộc
loài bò sát mà Rắn
lại là xác tục của
3 vị Thần
Tướng đã giúp Đức Phật,
cũng được coi là Tổ của
Phái, ( Bên Xiêm họ
thờ Tổ
là Naga Rắn ) khi không
còn giúp Đức Phật nữa
3 vị này nằm vắt
lên cành Khế, bởi vậy
nên kiêng Khế, đây là cách
kiêng kị để
tỏ lòng thành kính với Tổ,
bởi thực
tế nếu
vi phạm sẽ
khó mà được Tổ chấp
nhận, mà Tổ đã không chấp nhận
thì kết quả
ra sao chắc các bạn cũng hiểu.
Các loại
bò sát thì sao lại
kiêng vì bò sát là có họ
hàng liên hệ với Rắn
ví như Lươn,
Trạch vv.......
Học
Phép Trà Kha Cần
Những
Điều
Gì ?
Học
phép Trà Kha điều
tiên quyết nên phải có thầy truyền Đạo,
như đã nói ở
trên tất cả
các phép thuộc hệ Nam Tông thường hay cần sự
truyền thừa
hoặc có thầy truyền bởi
các phép cần có Tổ theo chứng và giúp đỡ nếu
thầy không cho phép thì Tổ nào biết mình là ai mà về chứng,
không có Tổ hoặc không có bàn thờ Tổ
thì khó mà luyện thành.Có những phép không cần Tổ
nhưng có những
phép phải có Tổ chứng
mới làm được, họa chăng có những người
hết sức
thành tâm trong lòng luôn nghĩ đến
Tổ thì may ra có thể học
được, tuy nhiên khuyến cáo nên có thầy truyền chỉ
cấp Sắc
Ấn không khuyến khích tự học.
Nhập
Môn Trà Kha Học
Phép Gồng
Trà Kha.
Học
phép này cần có những thứ
sau :
Lễ
vật : Lễ
vật học
Gồng Trà Kha cần phải
có là các thức cúng chay,
nguyên tắc nên cúng chay ( Gồng Tra Kha – Vũ Ồn )
cúng rất sơ
sài gồm có 1 cục than, 1 đĩa bỏng ( Nổ ), 1 nải chuối
, 1 đĩa Hoa , 1 chén nước
trong, 9 ngọn nến, và 9 cây nhang.
Hoa để
cúng phật, Chuối và Than để cúng 3 vị Thần
Tướng trong lốt rắn
Tranh Tổ : Người học cần
có 1 bức tranh Tổ để
thờ, cách thức thờ
như là ta thờ
bài vị, tranh thờ cho người học biết
rõ về gốc
tích của phép Trà Kha, người học có thể vẽ
tùy theo ý thích hoặc
cần phải
được thầy cho cách thờ, cách thức tranh có thể vẽ
tùy theo sự tích gốc của
Phái miễn sao khi vừa trông thấy tranh là có thể biết
được nguồn gốc
của Phái Trà Kha có tranh vẽ trên cùng là 1 Vị Phật
từ bi dưới
là xác 3 vị thần rắn,
có tranh vẽ 3 thần rắn
cuốn quanh cây khế, có tranh vẽ hình 3 thần tướng
đứng sau Đức Phật
vv............

Hình minh họa Tranh Tổ Trà Kha tại Cambot
Lời
Thề :
khi học phép học trò đều phải
đứng trước
bàn thờ Tổ
thề nguyện
những điều
sau đây.
( chiếu
theo sách Trà Kha của
thầy
TPL )
1 Con tên là ................tuổi .............
2 Nay nhận
thầy ...............là thầy của
con.
3 Con xin học
................( Phép gì nói rõ ) và xin nguyện
như sau :
Không Phản
Thầy Phản
Tổ.
Không Làm Trái Lương
Tâm
Không Làm Việc
Ác
Không Dùng Phép Vào Những
Việc Bất
Lương
Không Tham Tài Danh
Nếu
học gồng
thì có thêm lời thề Không dùng Gồng vào việc vô nhân đạo, không ỷ có Gồng
mà hại kẻ
khác, nếu làm trái xin thày Tổ thu lại phép và không ân hận gì ( Gồng Trà Kha – Vũ Ồn ).
Nghi Thức Truyền Phép .
Người
dạy truyền phép cho đệ tử
trong 6 lần, hoặc 6 tối
hoặc 3 ngày, mỗi ngày 2 lần, muốn
cho nhanh có thể
rút ngắn lại
chỉ 2 ngày 3 buổi cuối
dồn vào 1 ngày, làm vậy cũng không có gì mất thiêng cả.
Nghi Thức Khoán Bùa .
Có 2 cách khoán Bùa khoán Bùa : Trên giấy và khoán bùa vào người học vẽ
bùa trên giấy rồi lấy
1 cây hương đốt
cháy sau đó hua hua theo các đường
vẽ trên giấy như
vậy gọi
là khoán bùa, cũng có khi khoán trên người
mà không cần vẽ giấy.Khi
khoán bùa miệng phải đọc
kinh chú, khoán vào người
thì khoán vào Đầu,
Ngực,Lưng,
Tay, Chân, uống bao nhiêu Bùa phải khoán bấy nhiêu lần lên người.
Khi vẽ
Bùa lòng phải hết sức
thành tâm tưởng Tổ, và nghĩ hết sức
tập trung vào việc mình làm, lúc bắt đầu
khoán xong phải quán tưởng như là Tổ
đã nhập vào mình rồi, ngậm
1 hơi thổi
mạnh vào giấy bùa, hay là khoán lên thân mình.
Người
học phải
mua 4 thước vải trắng,
2 thước vải đen người dạy luyện
phép vào vải, để dùng trong khi truyền phép, vải ấy
sau này thầy chôn ở 1 nơi
khác để
yểm phép cho bền, khi truyền phép thì vải trắng
xếp quanh cổ người
học còn vải đen thì xếp dưới
chân.
( Qua thực
tế đây là nghi thức truyền Đạo,
thầy sẽ
truyền và vẽ lên vải 10 chữ bùa Tổ, đây là 1 hình thức gần
như cấp
sắc sau này người luyện đã thành công có thể truyền
lại cho người khác phép, tự học
hoặc nghiên cứu thì cần thành tâm tìm hiểu là đủ ).
Tối thứ
nhất : Sau khi đã bày lễ vật
lên ban thờ , thắp đèn , hương, nến, đọc
kinh cầu Tổ
sau.
Kinh Thỉnh Tổ.
Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam Hanh
Phanh, Cam Mành Mảnh,
Cam Mây Nghanh, Cam Manh Nganh, Cam Sắc
Xi, Cam So Rẹc,
Cam Chuốt,
Cam Phược...
Kinh Cầu
Tổ 1
Bờ
Ri Ti Ti Tích Nặc,
Bờ Ri Tích Ti Na Nặc, Phắc Cu Bờ Rích Nặc, Sắc Phịch Phổ Nặc, Ô Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt
Sơn Manh Manh Lơn.
Kinh Cầu Tổ 2.
Bờ
Ra Tít Ít Xắc
Nặc.
Bờ
Ra Xao Ti Ni Phịch
Mặc.
Bờ
Ra Chôn Xắc
Xắc Nặc.
Bờ
Ra Xây Tha Na Mặc
Nặc.
Bờ
Ra Chôn Bờ
Ruy Dặc
Nặc.
Sau khi đọc
xong kinh liền đốt 3 bùa sau đây cho vào nước uống khi uống xong liền thư
( khoán ) 3 đạo
bùa đó vào đầu , ngực, lưng,
tay, chân.
3 lá bùa này cần
phải vẽ
và luyện tập
trước khi bắt đầu
luyện và đọc Kinh Cầu Tổ
, khi vẽ Bùa cần đọc
bài chú sau.
Chú Vẽ Bùa.
Ô Ma Ten, Cu Tha Na MaNia Ta Rằng Ten, Căng Xoa Hạ
Ô Pê Ma Pa, A Pạ Ê Tệ, Pê Xô Phắc, A Quy A Xắc
Sau khi đốt
bùa uống xong thì khoán bùa lên người, uống bao nhiêu Bùa cần khoán lên người những bùa đó, khi khoán vẫn câu chú trên.
Tại
sao phải luyện
tập trước
để khi khoán bùa thì khoán 1 mạch luôn không bị nhầm
lẫn, bởi
các bùa đều dùng 1 nét mà
thành, 1 điều nữa khi luyện tập
trước cũng là để cho thần lực
khoán có lực hơn ( đỗi
với người
tự tìm hiểu, còn với người
có thầy truyền thì đã có thầy làm rồi ).
Tối
Thứ 2 : Vẫn dùng như nghi thức trên và khoán các bùa sau đây.
Các bùa trên vẫn
dùng như ngày đầu
tiên, tốt nhất
vẫn luôn phải tập
trước, sau khi khoán xong
nên ngồi trước
bàn tổ quán tưởng đến các lá bùa này trong thân mình và
liên tục tưởng
tổ hoặc
niệm kinh.
Tối
Ngày Thứ 3 : Vẫn Kinh Cầu Tổ
và khoán bùa như
trước.

CCách làm vẫn
như các ngày trước,
cần tập
luyện và vẽ trước
bùa này Nhưng lại khác 1 chút là đốt là bùa sau ra tro hòa với dầu
lạc, hoặc
dầu Tràm ( theo người viết ) sau đó ngậm dầu
này vào mồm phun khắp người
khi ngậm nên tưởng đến chú thư bùa, nhẩm
trong đầu, phun dầu lên mình xong sau đó thoa khắp cơ
thể, không nên tắm ngay mà chờ đến
ngày mai khi bắt đầu thư
bùa thứ 4 mới
tắm, nếu
để lâu càng tốt ( nếu
chịu được
dơ và nhớt
dầu ), khi phun dầu lên người chính là nghi thức để
cho bùa phép được ngấm vào cơ thể,
sự linh nghiệm sẽ
khó mà mất đi được.bởi vậy
nghi thức này rất cần
trong phép học Gồng Trà Kha.

2 Đạo
Bùa dùng hóa ra tro rồi
hòa cùng dầu lạc ( Tràm ) rồi phun thoa lên người.
Tối
ngày thứ 4 : Vẫn như
các ngày trên chỉ khác 1 điều là bài Kinh khoán bùa có khác
đi.
( Theo sách Gồng
Trà Kha thì không đọc
Kinh Cầu Tổ
nữa mà dùng bài Kinh Sau đọc thay Kinh Cầu Tổ,
kể cả
khoán Bùa cũng dùng Kinh này luôn, có nghĩa là ngày thứ 4 chỉ
dùng duy nhất 1 bài Kinh
sau.
Kinh Khoán Bùa.
Tối
ngày thứ 5 : Làm y như ngày thứ
4 với bài Kinh này, và khoán đạo bùa sau:
Thu Na Ca Môn Bu Chôn.
Xô Ca Mi Bờ Ri Xọt Xọt.
Thu Na Thắc Mặt Ít Ắc.
Bờ
Rô Ôi Ca Nít Y It Ti Ni.
Bờ
Ra Chôn Tha Na Thắc
Mặt.
Tối
ngày thứ 6 : Lại đọc
kinh của ngày thứ 4 và 5 và vẽ 2 đạo
Bùa sau rồi uống khoán.

Lời
Dặn : Riêng
vải trắng và vải đen lễ vật chỉ dùng được 1 lần, sau 6 đêm có thể gọi là thành tài, sự linh nghiệm sẽ không bị mất đi. Xin nhắc lại 1 lần nữa, pháp thuật không nên đem đi làm
bừa, nếu không đến khi mất phép lại tưởng ta đây vẫn còn mà hống hách có ngày bị chém chết mà chả biết tại sao.
Phép Đánh Võ Trà Kha.
Căn Bản Của Phép.
Phép này tương
tự như
1 phép thuộc Thần
Quyền, được
gọi là Thế Công, phép này luyện chữ
Bùa vào bàn tay trong vòng 100 ngày, khi dùng thì họa vào tay chữ Bùa rồi đánh ra, nếu chưởng
lực mạnh
có thể đánh ngã người khi cách xa 1,2 mét,
các phép thuộc hệ đánh như vậy
môn phái nào cũng có, Bắc
Tông có những pháp dùng Kiếm Ấn
họa chữ
Lôi ( 雷 )
vào lòng bàn tay rồi
đánh ra, ma quỷ, thần tiên, cũng phải ngã bổ nhào, tuy nhiên lưu ý các phép sau không nên dùng bừa,
nếu ỷ
mình có phép này đánh bừa
bãi sẽ có hậu
quả nhãn tiền ngay, nhẹ là mất
phép, nặng sẽ
bị hành đến phát ốm, bởi
vậy hết
sức lưu
ý thận trọng.
Cách Luyện .
Cũng giống
như tất
cả các pháp khác thuộc hệ
Nam Tông, do có sự
bắt nguồn
từ Phật
Giáo Mật Tông cho nên khi học bất
kì 1 pháp nào đều
cần nhất
1 chữ Quán Tưởng, người học cần
mỗi ngày bỏ ít thời gian ra để tu luyện trước
tiên cầu Tổ, sau đó ngồi tưởng
tượng trong tay trái có đạo bùa sau.
Trước
tiên nên vẽ đạo bùa này ra giấy rồi
để trước
1 ngọn đèn cầy luyện
bằng mắt
và tâm trí cho thuộc
lòng hình bùa đi, rồi
sau đó bắt đầu
quán tưởng chữ bùa này nằm trong bàn tay trái của mình, khi quán tưởng mồm đọc
kinh sau :
Giặc Nắc Thắc Úc Rốc ( 3 lần )
Làm liên tục
trong vòng 100 ngày thậm
chí hơn, người
giỏi học
nhanh có thể ngắn ngày hơn tùy từng
người, khi mà luyện đến
mức nhắm
mắt lại
là đã nhìn thấy lá bùa hiện rõ trong đầu lóe sáng đỏ lên như ngay trước mắt vậy
là thành công.
Cách Dùng .
Trước
khi chuẩn bị
ra tay đánh thì trong đầu
tưởng nghĩ đến Tổ, có thể đọc
Kinh Cầu Tổ
sau đó tưởng nghĩ đến bùa trong lòng bàn tay trái, mồm niệm
bài kinh và ra tay.
Khi ra tay niệm
bài kinh : Giặc
Nắc Thắc Úc Rốc (
7 lần ) rồi
đánh.
Phép đánh võ tay trái.
Thời
hạn luyện
100 ngày,
Cách luyện
: Mỗi ngày sau khi cầu Tổ
như trên , ngồi
quán tưởng trên tay mình có một lá bùa như sau :

Đọc
chú sau :
Giặc
nắc thắc úc rốc – 3 lần.
Ngồi
quán tưởng cho nhuần nhuyễn đạo
bùa. Khi vào tình thế
hiểm nghèo, quán tưởng Tổ, miệng
đọc chú ở trên rồi đẩy
nắm đấm
về phía địch. Khi đạt trình độ cao có thể cách không đả thương
địch.
Phép Đánh Võ Tay Phải
Phép này cũng tương
tự với
phép trên về cách thức luyện
tập chỉ
khác về câu chú và chữ Bùa và tay là tay phải. Luyện chữ
Bùa sau đây.
Câu kinh khi luyện
như sau :
Bờ
Ra Quýt Xôn ( 2 lần
)
Ô Pê Ma Pa ( 2 Lần )
Các phép trên nên sử
dụng vào việc nhân đạo, nếu
dùng vào việc ác đặc biệt
là đánh người vô cớ, hoặc
đánh phải kẻ
có phúc đức lớn thì sẽ lãnh chịu hậu
quả gấp
nhiều lần.
Phép Đánh Tam Sao Thất Bản
Lời
Tựa
Pháp này dùng đánh hoặc
trị tà đều
được cả, cách thức tu luyện cũng gần giống
các pháp trên, tuy nhiên đây là pháp do người
chép sách gốc là người đã học rất
nhiều môn phái nên gọi là Tam Sao Thất Bản
e cũng không phải
quá lời.
Cách Luyện.
Như
cách luyện ở
trên chỉ khác là chữ phù này tập quán trong đầu sau khi đã học thuộc
thì họa vào không khí, dùng kiếm ấn
họa vào không khí, hoặc tưởng
tượng trong không khí rồi dùng tay phải đánh ra.

Khi đánh 2 tay chắp
kiếm quyết
sau đó họa phù vào không khí hoặc tưởng
chữ phù, niệm chú.
Bờ
Ra Quýt Chuôl ( 9 lần )
Có 1 cách luyện
khác như sau không rõ thuộc hệ
phái nào, trước khi luyện niệm
bài kinh sau thay cho bài kinh cầu
tổ :
Nam Mô Ì Hí Lục Cụ Lục Chui Mặc Mặc Trợ Lực Cho Đệ Tử Tu Luyện. Nam Mô A Di Đà Phật.
Niệm
xong kinh dùng Ấn
Kiếm vẽ
chữ Bùa trên vào không khí 3 lần, khi vẽ niệm
bài chú Bờ
Ra Quýt Chuôl 3 lần
rồi há miệng thâu chữ Bùa đó vào miệng hớp
nuốt, luyện liên tục 1 thời gian 100 ngày, có thể ngắn
hơn tùy người
học. Khi dùng thì dùng Ấn Kiếm
họa chữ
Bùa trên rồi sau đó thổi ra bằng miệng,
tay phải buông kiếm ấn
vẩy về
phía người cần đánh.
*** Lưu
ý các chữ Bùa trên thuộc vào loại Pháp Thuật Nội
Công bởi vậy
nên chú ý về cách luyện khí công mới có thể dụng
được.
Các Bài Hội Phép Trà Kha Khác
Lời
Tựa
Như
đã viết ở
trên phép Trà Kha căn bản
cần nhất
là thuộc 5 bài kinh gồm có Kinh Tam Giáo, Thỉnh Tổ,
Hội Phép, Chú Gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện, và 10 chữ Bùa Tổ thày cho, dưới đây gồm 10 chữ Bùa.
10 chữ
bùa tổ trên tương tự với
các tên Tổ trong bài Thỉnh Tổ
Trà Kha sau đây.
Chú Thỉnh
Tổ.
Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam Hanh
Phanh, Cam Mành Mảnh,
Cam Mây Nghanh, Cam Manh Nghanh, Cam Sắc
Xi, Cam So Rẹc,
Cam Chuốt,
Cam Phược.
Chú Hội Phép.
Bờ
Ri Ti Ti Tích Nặc,
Bờ Ri Tích Ti Na Nặc, Phắc Cu Bờ Rích Nặc, Sắc Phịch Phổ Nặc, Ô Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt
Sơn Manh Manh Lơn.
Dưới
đây là 1 bài chú Hội
Phép Khác mà theo như
sách gốc chép là bài chú này được truyền từ
Thái Lan ( Gốc của Trà Kha ) bài chú này dùng cho rất nhiều
việc, khi niệm bài chú này tà ma sợ thấy
rõ không cần phải tụng
các bản kinh khác, niệm 3-5-7 lần.
Chú Hội Phép Trà Kha
Ô Bờ
Ri Tíc Ta Na Nặc,
Bờ Ri Tíc Tic Nặc, Fách Cu Lơ Tic Nặc, Sắc Fích Lịch Phổ Nặc, Mặc Mặc Uộc Mặc, Dắc Mặc Tê Uốc, Ton Ton Tanh Tanh,
Ton Qui Hưa
Coc Mitl, Ta Răn
Ton Căng,
Mặc Uôc Uôc Mặc.
Phép Luyện Cành Khế.
Chọn
bất cứ
1 cành khế nào, khế chua hoặc ngọt
đều được,
chọn lấy
1 cành thẳng khoảng 50 phân, dóc hết vỏ
ngoài chỉ để
lõi, vẽ đạo
bùa sau đây.
Bùa này vẽ
bằng giấy
vàng chữ đỏ,
giấy vẽ
Bùa dài đúng bằng cành khế, trước
tiên cầu Tổ, sau đó vẽ bùa, rồi quấn
chung quanh cành khế,
sau đó để thờ
trên ban thờ Tổ, luyện
tập trong 100 ngày, ngày nào cũng cầu Tổ, khoán bùa vào cành khế,( Khoán Bùa chứ không phải vẽ
) vừa khoán Bùa vừa đọc
kinh cầu Tổ, xong liền tưởng
tổ thổi
mạnh vào chỗ vừa
Khoán, nhất định không được dùng dao trong khi chặt cành dóc vỏ, khi luyện thành chỉ đánh lướt 1 cái là đối phương
té nhào.Chớ nên đánh thẳng vào người sẽ gây nên sự nguy hiểm khó lường.
Các Chữ Bùa Xin Sức Mạnh Hàng Đêm.
Các chữ
Buà họa đốt
uống để
vô sức mạnh
câu chú khi vẽ và khoán Bùa như sau :

San Sá Cam Ên Chênh Bên Canh Sanh, Ề Ế Bi Mal Xa Buôc.
Bùa trừ trộm .
Nếu
như trong nhà ta bị trộm
vào nhà lấy mất đồ
và để lại
dấu chân thì chớ có để
mất dấu
chân đó mà nên giữ
kĩ lại, sau đó khoán chữ Bùa này lên chỗ dấu
chân của nó rồi dùng 5 cái đinh đóng lên, sau đó
lấy cái thúng úp lên chỗ dấu
chân đó, 3 ngày sau tên trộm
bàn chân sẽ bị sưng
vù lên, nếu như
nó ở cạnh
nhà của mình thì nhìn thấy chân nó xưng lên là biết.
Khi đóng đinh vẽ
bùa niệm chú sau.

Trầm
Mây Mê Xem Mặt
Bi Sô Hấp
Trục
Người
Về.
Nếu
như có người
nào bỏ đi không quá 3 ngày thì dùng Bùa
chú sau để trục về,
trước tiên lấy giấy
vàng viết lá Bùa này.
Chép tên họ
người cần trục
về vào trong lá Bùa. Lấy 1 cái hột gà sống chôn xuống dưới
đất, để
lá bùa lên trên hột
gà, vỗ tay 7 cái
( Nam ) Vỗ
9 cái ( Nữ ) kêu tên họ bảo
là về gấp.
Hoặc để
cái Bùa này trong gối
người đó, vỗ 7 cái ( Nam ) 9 cái ( Nữ ) kêu tên họ bảo
họ về
gấp.
Chú : Ề
Hế Nha Ăn Sên Mặt Mặt .
Phép Yêu Thương.
Phép này dành cho những
người có vợ hoặc
chồng bất
hòa ý kiến hoặc
là đôi tình yêu nào hay giận
hờn nhau mà đâm ra xa cách, phù phép
này có tính thông cảm
với nhau và sẽ yêu thương nhau hơn, tuy nhiên phải có thực tế
là 2 người yêu nhau như vì 1 lý do nhỏ
nào đó mà xa cách còn Bùa này không thể
giúp cho tình cảm
từ 1 phía mà có thể kết
hợp được.
( Tình yêu đơn
phương )
Cách Làm
Lấy
giấy vàng viết tên tuổi của
ta và người ấy vào giấy rồi
sau đó, sau đó lấy
son đỏ hoặc
mực đỏ
( tốt nhất
là mài son đỏ, chu sa ) vẽ chữ
Bùa số 1 chồng
lên tên tuổi đó ( khi vẽ nín thở, vẽ
càng ít nét càng tốt
) tập trung thần khí lên đó, sau đó thắp lấy
12 cây nhang đứng trước ban thờ phật
họa lại
bóng lá phù đó 3 lần,
mỗi lần
họa hoặc
khoán bùa đều phải đọc
chú sau :
Thiên linh linh, địa linh linh, cầu phật tổ, phật thầy, chư vị binh gia của đức Thiên Thủ Thiên Nhãn, xin gia hộ cho cặp ( Vợ Chồng ) ( Đôi bạn trẻ ) tên .........tuổi...........địa chỉ.......được đoàn tụ cho ôn hòa, án thần phù, tuc ba la, tuc
ba la, tuc đắc
sắc.
Niệm
xong, khoán bóng bùa xong thì lập
tức hít sâu 1 hơi rồi
thổi lên lá phù, khoán bóng 3 lần thì thổi lên 3 lần.
Lưu
Ý : Trong
Huyền Môn có quy tắc khi niệm chú hành pháp chớ nên ăn các thứ Hành, Tỏi, Ngò , Khế và các thứ kiêng cữ khác, nếu không hơi thở
ô uế thần
chú không linh, Thánh Thần
xa lánh.
Sau khi làm xong liền
gấp lá bùa đó làm 4 lần, để
dưới lư hương
ban thờ Phật,
mỗi ngày 4 lần, Sáng, Trưa, Chiều, Tối,
thắp nhang vái bài chú trên 3 lần, riêng khóa tối khoảng
6,7 giờ thắp
3 cây nhang và 1 đĩa gạo
muối, 3 li nước sạch, ra bàn thờ thiên vái bài chú ấy 3 lần,
rồi rải
gạo ra 4 hướng thực hiện
liên tục trong 1 tuần sẽ
có kết quả.
*** Theo thầy
TPL có dặn các phép đều phải
có sự tin tưởng tuyệt đối
mới linh diệu, nếu
làm thử làm chơi thì e sẽ
không thành, trong Huyền
Môn quan trọng nhất là sự tin tưởng.
Trường
hợp xấu
khi sử dụng
Bùa số 1 nếu
trong 1 tuần đầu làm phép mà vẫn không có kết quả
tốt, thì ta nên vái xin làm tiếp trong 3 hôm nữa, sau 3 hôm mà vẫn không được nữa thì ta nên vái xin rồi đem lá Bùa đó đi đốt vì Duyên Nợ chỉ
có vậy, cưỡng
cầu e rằng
không tốt cho cả 2 bên.
Dưới
Đây Là Hình Thức
Bùa .
2 lá Bùa “ Nam và Nữ
” ở trên dùng trong trường hợp khi 2 người cãi nhau, sau khi đã
làm như ở
trên, muốn đến
gặp người
Nam hoặc Nữ
để nói chuyện hòa giải.
Cách Làm
Người
làm phép là Nam cần
giảng hòa với Nữ
thì ta vẽ cái “ Bùa Nam ” vẽ và họa
bóng, đọc chú Bùa 7 lần, thổi
bùa 7 lần, kêu tên người Nữ, sau đó để Bùa trong túi áo, và đi đến chỗ
hẹn gặp
để nói chuyện hòa giải.
Người
làm phép là Nữ cần giảng
hòa với Nam thì ta vẽ cái “ Bùa Nữ ” vẽ
và họa bóng, đọc chú Bùa 9 lần, thổi
bùa 9 lần, kêu tên người Nam, sau đó để Bùa trong túi áo, và đi đến chỗ
hẹn gặp
để nói chuyện hòa giải.
Bài chú cũng y hệt
như Bùa Số
1.Riêng 2 đạo Bùa Nam và Nữ phải
nín hơi vẽ
1 nét là phải xong, khi vẽ niệm
chú, khi họa cũng vậy luôn.
Một
số nghi quỹ chung khi tác pháp.
1/Pháp danh hội .
Nam mô Tây phương Phật tổ thích ca như lai, Bồ đề tổ sư , 36 vị lục tổ lục cụ, Chuẩn đề bồ tát, Quan âm , Già lam
quan đế
, 9 phương
Trời
10 phương
Phật
, tả
quan Châu hửu
quan Bình , đấu
chiến
thắng
Phật
, bạch
hổ sơn động .
Nam mô Ngọc hoàng Thượng đế , chư vị Phật tổ , Linh sơn Thánh
mẩu , Cửu thiên huyền nử , Nguyên nhung chúa tướng ,cửu vị Tiên nuơng, 3 ông
Quốc
vương đại thần , vong hồn sư ông
sống cứu thế trợ dân , vảng về chầu Phật tổ cảm ứng chứng minh cho đệ tử ...(xưng tên
họ tuổi mình ra) hội cầu tổ ........(chửa bịnh , xuất quyền, luyện phép v.v...đọc 3 lần như trên
)
ề
hế no thăn ngăn
xá xây cà ra mây chư vị nhập xác cho đệ tử .
Còn một
phiên bản khác như sau :
Nam mô con nguyện ơn trên
Cha Trời
mẹ Đất , Dưới có Phật Tổ, Phật Thày, Phật bà, Phật mẹ. 9 phương Trời, 10 phương Phật , con nguyện trên 36 Thánh , dưới 72 hiền Thần, Thần hoàng lục bộ đài quan , Thần hoàng bổn cảnh, đêm 5 du Thánh ,
ngày có 6 khắc
có 6 Thánh tuần
giảng
Đông, Tây, Nam, Bắc,
con nguyện
vong hồn
sư ống sống cứu Thế , trợ dân , xin ông giáng về chầu Phật Tổ , hộ độ cho đệ tử ( tên...tuổi...) cứu dân , độ thế.
2/ Xin luyện phép tắc.
Sắc
lệnh Thiên hoàng, Địa hòang, Nhơn hoàng-án
Thiên
linh linh-Địa linh linh-kim mộc thuỷ hoả thổ linh linh-Phật linh-Tiên linh-Thánh
linh-Thần
linh-Phù linh-Pháp linh-chơn
linh-tâm
linh-đức trọng quỷ thần kinh-khẩu xuất niệm thần chú-thọ lảnh sắc Trời-cấp cấp như luật lịnh-sắc sắc lịnh-Nam mô a di đà Phật (3 lần ) . Xin ông Giảng về chầu Phật tổ hộ độ đệ tử tên ... tuổi ...làm gì ...
3/ Kinh xin luyện phép .
Nam mô các chư Tổ chánh-Nam mô 36 chư Tổ trang-Nam mô các chư vị Thánh tổ về giúp đệ tử luyện phép-Nam mô adi đà Phật.
4/ Cầu 36 vị trang Tổ chứng:
-1-bili 2-núsê -3-no
tho ngan -4-tế
sa -5bề
mắc -6-săn khê
-7-da tô -8-a sa thá -9-a quê săn -10-bạch hổ -11-lục cham -12-lục chi -13-lục nha rây -14-lục cà chui -15-a
sà lam -16-ngủ
hổ -17-nha thô
-18-nha bênh -19-ba lưu
-20-ná
ba nặc
-21-but no má -22-no nặc
hăn -23-bi sa tha -24-tăc đà bà -25-lưu quan chơn -26-cám
rừng -27-thần hưu thánh
-28-thần hoàng -29- a
chàm -30-bửu
da đà bửu
-31-buôl thá -32-á sa ngăn -33-ná cà xa dá -34-nha rây
-35-bí sa tha -36-bi nha rây.
5/ Cầu chứng luyện mau thành:
Trời
trên,Trời
dưới,Phật tổ,Phật thầy, mẹ Quan thế âm ,5 sư ,6 tổ,lục Tổ-lục Mun-lục Xiêm hiệp-lục Lèo-ông 5, ông 6, ông
7-Trời
Phật
Thánh Thần-ông
Trạng
mình-cho con luyện
phép siêu xuất
giúp đời-xin
thỉnh
ông ca sa-ông mel ha bal ta-ông a sa ca li.
6/ Xin Phật tổ phép chứng :
-Nam mô cam mô ranh-buôl thô a ra hăn –
nec mec ă ú.
Nhập môn luyện câu chú Phật nầy 7 đêm liên tục :
sôc rô mit thô –et thăng ăc crê-nam mô bửu ni đà dá –đa dạ dà ta.
(Từ
nay không có tà Thần
nào xên vô xác hành giả
) .
Tất
cả bài cơ bản
như đả
nêu trên xong ,sau đó niệm
kinh Đại bi tâm đà la ni hay luyện phép nào theo ý hành giả (bất
kì phép của Lổ bang hay Xiêm Miên Lèo Lục Ấn
Chà Hồi đều
được)
Khi ngưng luyện hành giả vuốt mặt 3 lần nói :
-ta săc …và cúng 3 chung nước mới , đọc thần chú :-put đằng put sế ní-đà nằng put sế ní-tằng giằng put sế ní-á hàng quan đà mí
tăc đà bà .
(mai ngày thay nước
thì uống 3 chung nước cũ,không được đổ bỏ)
.
Người
luyện phép Trà Kha thường hay triệu thỉnh Đại mãng xà vương - Ma hô la ga đê va .
Hội
phép Chà Kha-Tam sao thất
bổn.
Sau đây là các phù lục
tam sao thất bổn từ
phái Chà Kha:
Ba chữ
phù đầu tiên : Trị đau nhức - Trị đau cuống họng
- Họa vào trứng gà lăn mở ngãi.
Sư
Phụ dạy
rằng : Môn này phãi có Kinh Tam Giáo
Trấn Môn rồi Hội
Tỗ , hội
Phép như đã trình bày , sau đó Chú Triệu
Binh đễ sai khiễn và sau cùng là Chú cầu nguyện cho mọi việc
thành tựu (Dù làm cho mình hay cho người cũng được) .
Xin theo dõi tiếp
BÀI 33. DIENBATN.
_______________
Nguồn:
sưu
tầm

















Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét