CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 27.
NHỮNG
NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ
phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN
MÔN. Đó là những tháng ngày vô
cùng vất vả,
trải nghiêm đủ Hỉ-
Nộ- Ái - Ố của
dienbatn . Cũng đã qua từ
lâu rồi , xin kể lại
để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ
và Đời sống
.
Hàng ngày tôi phải
thường đọc các câu chú Thày Chàm dạy cho thật nhuần
nhuyễn.
Chú kêu 3 ông Tổ
lớn nhất
“ Ề hế
tế dá mặc
mặc.Ề
hế thế
dái mặc mặc.Ề hế
Bi li mặc mặc.”.
* KINH KÊU TỔ.
Nam mô tassa phagavato arahato sammasambut tasac.
Khi muốn làm việc gì lớn phải
đọc bài kinh này.
* KINH KÊU TỔ.
Nô phích chi quých – Nô phích duol chanh – Ni hai ni duol – Nắt phích bích tíc – Nắt lom mô quên – Bíc quên bel thắt quên – Dul chai nắt lom – Lon lại nắt
săng ti mô – Sa rắt
pút thắt ma ních muốt mô ( 3 biến ).
* Chú tập và cầu Tổ
buổi sáng.
Con cầu xin đức Phật
Quan Thế Âm Bồ
tát.
Con cầu sư
Tổ Thất
sơn Thần
quyền.
Con cầu 7 vị
sư phụ
của đồ
nhi.
Con cầu xin thể phách không chưởng.
Con cầu xin sư Tổ
và 7 vị sư
phụ Thất
sơn Thần
quyền cho đệ tử
con được rê quyền nhanh mạnh , tu luyện chóng thành tài. BÚP THA.
* CHÚ CẦU PHẬT BÀ VỀ TRỢ
GIÚP.
Út đa măng kính cần
Quán thế âm Bồ
tát về tự.
Hỏa hỏa
chơn nhơn
ba ông Đạo
trưởng.
Như câu lão ông.
Thanh Trúc Đạo
trưởng.
Bá Hanh ngũ độc.
Ngư Thiên Đạo
trưởng.
Sử dụng
: Đọc 3 lần
- vái 3 vái.
* Lời vái buổi sáng và trước khi tập quyền.
Nam mô A di đà Phật.
Phục vọng
Hoàng Thiên hậu Thổ, Phật
Tổ , Phật
Thày. Linh Sắc, Hắc Tổ
, Tam thập lục
Thánh, thất thập nhị
hiền, lục
bộ đài quân, Du Thánh Du Thần cảm
ứng, Phật mẫu
tu luyện cho thành Đạo.
Nam mô A di đà Phật.
9 phương Trời - 10 phương Phật , Tây phương tiếp dẫn
A di đà Phật , Quán Thế Âm Bồ
tát , Phật Đại
thế chí Bồ tát , Thích Ca mâu Ni Phật, Phật
bà Thiên Tài Long nữ
, Quan Thánh Đế Quân, chư vị
Thất sơn
, Tà Lơn lai lâm ủng hộ
cho con tên ....tuổi
...quê .....tu luyện
thành đạt.
* CHÚ CẦU ĐỘ
MẠNG .
Ha ta ma - Ha ta ma.
Út ta ra hăng tác bà ha.
Phận bà Quan Âm, Như Lai.
Tê ra tát bắt phạt
cho đệ tử
( 7 lần ).
*CHÚ CẦU THẦN
VỀ MÁCH BẢO .
Nam mô Quán thế âm Bồ tát,
Nam mô sư Tổ
của Thất
sơn Thần
quyền.
Cầu 7 vị
sư phụ
của Thất
sơn Thần
quyền.
Úm xùm xòa na ni - Vườn
tó vườn tắc , vườn
khám - Ám loại thoai thoai
thoai - Vườn tán Quán thế âm Bồ
tát .
* CHÚ CẦU 7 VỊ
THẦN BÙA.
Phút thăn xa ra măn két xa mí.
Thơm măn xa ra măn két xa mí.
So khăn xa ra măn két xa mí.
Ề hế
kìn xa ra - Ề hế mắc
mắc.
* CHÚ CẦU 7 VỊ
THẦN PHÉP.
Nắng ràm nàng rây bèn khen khuây - Nền nà nền ôi - A ra hăng á.
NHỮNG
TÔNG PHÁI TRONG TSTQ.
Trong môn phái TSTQ, người ta chia ra 2 phái
chính : Đó là Võ Đạo
và Quyền Đạo.
Trong Võ Đạo còn chia ra 2
phái là Âm Công và Dương
Công. Thất Sơn
Thần Quyền
chính tông gồm 2 phần: Quyền và Thuật. Quyền là phần "dương công" gồm những
thế võ cận
chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần "âm công" huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực.
Chỉ đệ
tử duy nhất được
chọn kế
thừa chưởng
môn mới được
sư phụ
truyền dạy
phần "âm công".
Trước hết là Võ Đạo :
“ Đạo Trong Võ Học : Nói về Đạo
trong võ học, là nói về Đường
lối, là Chân lý, là Giáo Dục. Võ học chính thống, thì cho dù là võ Việt Nam, võ Nhật, võ Trung Hoa, Đại Hàn, hay bất cứ
môn phái của dân tộc nào cũng có Đạo. Nói chung, Võ Học có năm Đạo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
1. Chữ Nhân.
“Nhân” có nghĩa là lòng thương
người, trên căn bản Nhân đạo. Võ học chính thống luôn dậy người
phải có lòng Nhân. Học võ không phải để
hại người,
để khoe tài, để kiêu căng, chà đạp người
khác, mà học võ là để vừa
Tự vệ
vừa để
bảo vệ
người yếu đuối.
Không một môn võ chính thống nào dậy võ sinh là học xong, các trò phải đi xưng hùng xưng
bá, phải giết
chết địch
thủ như
trong các phim chưởng, truyện chưởng
mà chúng ta thường xem. Tất cả
những điều
đó chỉ là kết
quả của
sự tưởng
tượng, nhất là đối với
dân tộc Việt
Nam chúng ta.
Nếu lần
giở lại
lịch sử
trên 4000 năm văn hiến,
từ khi lập quốc
đến nay, đến thời
đại chúng ta, từ Nam, qua Trung, ra Bắc, chưa
hề bao giờ nghe nói đến có những môn võ nào dậy đệ
tử đi làm hại người
cả. Ngược
lại, chỉ
thấy những
môn võ rèn luyện môn sinh để giữ
gìn đất nước,
bảo vệ
người cô thế. Đến
khi những môn võ nước ngoài du nhập vào đất nước
ta, cũng chỉ nghe nói đến chữ
“Nhân” trong võ học.
Các đòn thế đấm, đá, vật, xiết
cổ, đè, quăng, ném đều hạn
chế người
xử dụng
tới một
điểm nào đó. Những cú đánh kết liễu
chỉ được
dành cho các môn sinh ở
trình độ cao, có thể tự
điều khiển
được mình rồi, mới
được học cách xử dụng,
với lời
căn dặn là “chỉ khi nào nguy cấp, không còn cách tự vệ
nào khác, mới được áp dụng đòn hiểm để
thoát thân.” Do đó, từ
cả trăm năm nay, không mấy ai nghe nói đến có những trường
hợp tử
vong chỉ vì người xử dụng
võ thuật nóng giận, đấm
đá kẻ địch
đến chết
hoặc chết
vì thách đấu.
2. Chữ Nghĩa
Một khi nói đến chữ
“Nghĩa”, người ta thường nghĩ ngay đến “Nghĩa hiệp” và “hành hiệp trượng
nghĩa”. Mà muốn hành hiệp trượng
nghĩa, cứu khổn
phò nguy, thì phải
biết võ nghệ. Do đó, võ học đi liền với
“nghĩa”. Người học võ thường thích ra tay nghĩa
hiệp. Giữa
đường thấy chuyện bất
bằng là phải ra tay ngay. Nghĩa còn dậy chúng ta phải biết
trả ơn
một khi đã nhận ơn.
Người học võ thường không bao giờ muốn
nợ ai mà không trả. Nhất
là nghĩa Thầy, Cô, nghĩa Sư Phụ,
Đệ Tử.
Học chữ
có thể quên Thầy, nhưng
học võ thì không bao giờ có thể không nhớ ơn
Thầy đã nắm tay, cầm chân, chỉ cho một thế
đá, thế đấm,
không thể quên lời Thầy
dặn dò, chỉ bảo,
hoặc gắt
mắng chỉ
vì lo cho môn sinh mau tiến
bộ, mà lại không gây thương tích cho chính mình hoặc cho người khác.
3. Chữ Lễ
Lễ là hình thức cư
xử giữa
môn sinh và Thầy Cô, giữa các môn sinh với nhau, giữa môn sinh của môn phái này và môn phái khác. Lễ được
thể hiện
ngay ở cách chào kính, bái tổ trước
khi bước ra sân đấu. Tùy theo môn phái, mà cách chào
kính, bái tổ khác nhau, thường thì bái Tổ sư,
kính Thầy, chào bạn, có môn phái chào cả khán giả, có môn phái lại chào cả nơi
chốn mà mình tập luyện,
song đấu nữa.
Trong môn phái Nhu Đạo,
khi thi lên đẳng cấp đai đen, ngoài thi song đấu, thi kỹ thuật
còn thi Lễ nữa. Các võ sinh đai đen phải di chuyển từng
bước chân, từng cử
động thật
chậm đúng Lễ Nghi, đúng phong thái mới được
trao bằng. Chữ Lễ
trong võ học còn dậy các môn sinh quy củ trường
tập, kính trên nhường dưới. Lễ dậy
cách bảo vệ
danh dự của
Môn phái, bảo vệ danh dự cho nhau. Người đã tập võ chân chính càng ngày càng cung
kính, nhún nhường, không cao ngạo, không tự phụ,
khoe khoang, không biểu
diễn võ công khi không cần thiết.
Chữ “Lễ”
trong Võ học được trọng kính và áp dụng hơn
rất nhiều
chữ lễ
trong khi học chữ. Người
Thầy trong Võ học khi xưa còn có quyền
sinh sát với môn sinh hơn cả
cha mẹ nữa
cũng chỉ vì chữ “Lễ”.
4. Chữ Trí
Người học võ nhất định
phải học
những cách phản công, xử thế
trong các trường hợp ngặt
nghèo. Môn võ nào cũng dậy
cách biến hóa, phản đòn, nghĩa là dậy các môn sinh dùng Trí tuệ đi kèm theo Võ thuật. Không có Trí, võ chỉ là những đòn hùng hục như
trâu, gặp đối
thủ lanh lợi thì nhừ đòn. Trí trong các môn võ học chính thống không phải là lường gạt, mưu
mô, mặc dù có đòn hư, đòn giả.
Người võ sinh chính nhân
quân tử chỉ
dùng Trí để không cho địch thủ
biết mình định xủ
dụng đòn nào thật, đòn nào giả. Những
cạm bẫy
để lừa
gạt người
không phải là Trí mà chỉ là phương pháp tiểu nhân mà thôi. Ngoài ra, các môn
võ chân chính cũng dậy
môn sinh phải biết suy nghĩ để cho võ thuật được
xử dụng
đúng lúc và đúng cách hầu
đúng với câu :Một trí tuệ minh mẫn trong một thân thể tráng kiện.
5. Chữ Tín
Không cần phải
giải thích nhiều, ai cũng hiểu, người
có võ học luôn biết giữ
chữ Tín của Người
Anh Hùng, đã nói là làm, đã hứa
là phải giữ
lời. Người
có chữ Tín thà chết không để cho danh dự bị
xúc phạm vì nói mà không giữ lời.
Trong chiến tranh, đã biết bao võ sinh hy sinh thân mình chỉ vì một
chữ Tín với Giang Sơn, Tổ
Quốc.
Tóm lại, nói đến Võ Học là nói đến Đạo,
đến Lễ
Nghĩa, Trung Tín, đến
Danh Dự, đến
lòng Nhân Từ và Trí Tuệ. Võ học không chỉ là tay đấm, chân đá, quật, vật,
ném, tung mà là cả
một hệ
thống Đạo
trầm ẩn,
thâm sâu. Người học võ thâm thúy cũng như người
tu đạo. Cho nên, khi nhìn một vị
Tôn Sư thật
sự, chúng ta tự nhiên thấy kính nể, vì những ưu
trầm của
Đạo đã thể hiện
lên khuôn mặt cũng như một
vị tu hành đã thành chánh quả. Không khắc khổ,
cau có, không giận
bùng, không buồn bã. Chỉ cất
tiếng Sư
Tử Hống
để áp đảo
địch thủ,
chứ không nổi giận
gào thét bất thường. Chỉ ra tay vũ bão để giảm
nhẹ đau thương, chứ không biểu diễn,
dậm dọa
người cô thế. Võ học cao quý như thế
nên võ học chính thống càng ngày càng thịnh. Những thế
võ quái đản, hại người,
hại thân như của
Nhạc Bất
Quần, Đông Phương Bất Bại
như trong chuyện Chưởng
thì tự nhiên dần dần
tàn lụi. ( Nguồn: Việt
Báo. ).
Không thể
diễn đạt
định nghĩa của - Võ đạo một
cách đơn giản
được. Đây vốn là từ dùng để chỉ
Võ Sĩ Đạo nhưng
Võ đạo
ngày nay được định nghĩa khác nhau tùy theo từng môn phái.
Hơn
nữa, dù là người trong cùng một môn phái nhưng cách suy nghĩ về
Võ đạo cũng khác nhau, và có lẽ không có một định
nghĩa nào về Võ đạo có thể thỏa
mãn được tất cả
mọi người.Tuy
nhiên, nếu định
nghĩa đái khái về
Võ đạo thì có thể nói, trong Võ đạo, không chỉ học
kỹ thuật
chiến đấu,
mà còn cần phải
rèn luyện thể
chất và tâm hồn, hình thành nhân cách.Ngoài ra,
nhiều người
thường đánh đồng Võ đạo và Võ thuật là như nhau nhưng Võ thuật
chỉ kỹ
thuật chiến
đấu, còn Võ đạo hướng
tới mục
đích hình thành nhân cách thông qua kỹ
thuật chiến
đấu.
Võ đạo vốn
không nhằm mục
đích thi đấu, tranh tài.
Khi con người đã có ý thức luôn tự hoàn thiện tất
yếu sẽ
tránh được những thói hư tật
xấu, những
sa ngã trong cuộc
sống. Xã hội có nhiều con người tốt cũng sẽ tốt,
cũng như khi có nhiều điểm
sáng thì bóng tối
sẽ tự
tiêu tan. Đây là một
lý tưởng hoàn toàn mang tinh
thần phục
vụ, cống
hiến cho nhân loại, một
nhân tố hòa hợp, gắn
bó bằng tâm thức yêu thương, hào hiệp chứ
không phải sự
chinh phục, áp đặt, đồng
hóa. Chân giá trị
của " Võ đạo " là tính chất nhân bản : do con người, vì con người, phát triển và phục vụ
con người...như một
biển lớn
thu nạp được
tất cả
mọi mạch
nguồn từ
các nơi đổ
về, bất
kể phẩm
chất và số lượng
của mạch
nguồn đó ra sao, sau đó chuyển hóa thành nước biển trong sạch.
“Con Đường Võ Đạo
Với tính ứng dụng,
Triết Lý Võ Đạo có nội hàm là Tam Chân (ba chân lý rốt ráo của Võ Đạo cần
quán triệt) và Tứ Xứng
(tương ứng với
các trình độ truyền dạy
mà người học phải
hội đủ
những phẩm
chất để
xứng đáng được truyền), và là kim chỉ nam hướng dẫn cho người học một
cách xuyên suốt trên Con Đường Võ Đạo.
Tam Chân
Chân lý thứ nhất : Tự
Thắng
Chiến thắng
vĩ đại nhất
của người
học võ không phải là chiến thắng
kẻ khác mà là chiến thắng
bản thân, chiến thắng
những đam mê thấp hèn, chiến thắng
cái Tôi "Vĩ Đại"
dốt nát, chiến thắng
những chủ
quan một chiều
chật hẹp,
những hoang tưởng về đỉnh
cao vũ trụ... "Hiểu được
bản thân là Anh, Thắng được
bản thân là Hùng".
Chân lý thứ
hai : Yêu người
trên quan điểm vị tha
Người ta thường yêu theo cách hướng nội, thực
chất là yêu bản thân mình, là để thỏa
mãn khát vọng vị kỷ.
Điều này đi ngược với quan điểm Võ Đạo. "Yêu" đúng nghĩa của Võ Đạo là mong cho người khác đẹp hơn
mình, giỏi hơn
mình và may mắn hơn
mình. Trong quan hệ đồng
môn, đó là sự chia sẻ, nhường
nhịn của
tình anh em gắn bó máu mủ, nâng đỡ nhau để cùng tiến bộ.
Trong quan hệ thầy trò, đó là sự hy sinh không toan tính, vô bờ bến
của người
cha dành cho con.
Chân lý thứ ba : Định giang sơn, an vũ trụ
Đây không phải là một chân lý diễn đạt
theo kiểu thậm
xưng, mà là một
thái độ hành xử rất
cụ thể,
không chỉ đúng với Võ Học mà rất đúng trong mọi hoàn cảnh xã hội, nhất
là đối với
một xã hội vẫn
còn sự ganh đua, tranh giành, quay cuồng giữa
bài toán "Cho" và "Nhận".
Đây chính là cốt lõi uyên
nguyên của mọi
tranh chấp và xung đột trên thế giới
hiện nay, là một lập
trình đã sai cơ bản của
vấn đề
sinh tồn nhân loại. Võ Đạo lấy
quan niệm bao dung "Yêu người trước nhất và ghét người sau cùng" làm nền tảng
hành xử, hãy cho đi để mà nhận và nhận để
mà cho, lấy việc bù đắp cho người khác trước rồi mới
tới lượt
mình thụ hưởng
thành quả. Phải
an được mình, làm ổn định
được một vật
mới làm cho những vật
khác, việc khác ổn định.
Đối với
người muốn đến
với Võ Đạo, đây là một phương
pháp rốt ráo, bắt buộc
để rèn luyện tư
duy, cảm xúc và hoàn thiện hành vi.
Tứ Xứng
ChânTruyền :
Người học trò đến với
thầy, phải
Chân Thành mới xứng đáng được thầy Chân Truyền .
Tâm Truyền :
Người học trò phải có lòng Tôn Sư Trọng
Đạo, dốc
tâm khổ luyện
và tận tụy
với môn phái mới xứng
đáng được thầy Tâm Truyền. Vì Tâm Truyền là kết quả
của cảm
ứng rung động, hòa cảm giữa
thầy và trò. Chỉ trong trạng thái đó thầy mới
toàn tâm toàn ý và tin cậy
giao cho học trò những kiến
thức ấp
ủ một
đời.
Bí Truyền :
Người học trò phải thông minh, tài trí xuất chúng, có căn cơ đặc
biệt mới
xứng đáng và đủ khả
năng để được
thầy Bí Truyền. Bí Truyền không có nghĩa là bí mật mà cần hiểu
theo nghĩa truyền
dạy bằng
phương pháp siêu hình. Bí truyền đòi hỏi trò phải có căn cơ lĩnh hội
hơn người
và khả năng trừu tượng
cao độ trong quá trình thụ giáo bằng tâm linh.
Mật Truyền :
Trò phải là con người tiềm ẩn
nhiều phẩm
hạnh cao quý, có khả năng hữu dụng
cho đời, có tấm lòng vị tha và trái tim nhân ái, thầy mới
dám Mật Truyền, mới
gửi gắm
cho trò những bí mật tuyệt
học của
Bản
Môn.(http://www.shaolinwingchun.com/).
“ ĐẠO
là con đường, là hướng đi, là lối sống
(Đạo đây không phải là một tín ngưỡng )
Vậy
ĐẠO là đường lối, mục
đích, là kim chỉ
Nam. ĐẠO còn mang ý nghĩa Lương Tâm của con người. Tâm hồn thanh cao trong một thể
xác lành mạnh. ĐẠO còn là NƯỚC : Nước có thể Hòa mà không Đồng. ĐẠO
còn được nêu cao như một
mẫu mực
của người
Quân Tử. ĐẠO
được phô diễn như
một Cây Tre. ĐẠO chính là phần siêu thoát, tinh túy, vượt lên trên mọi bản
ngã của con người : Ganh ghét, đố kỵ,
hơn thua, sang hèn, tốt xấu…….
ĐẠO cũng chính là cán cân công
bằng, giản dị,
vị tha. ĐẠO là căn nguyên NHÂN BẢN dân tộc và nhân loại.
Nhờ có võ đạo người
môn sinh tạo được niềm tin trong cuộc sống,
luôn hướng thiện, tu luyện bản
thân hoàn hảo hơn, xây dựng
gia đình vững mạnh, thành công trong giao tiếp làm ăn, giúp ích cho dân tộc và nhân loại trong những công tác xã hội, xây dựng và bảo vệ
đất nước…
Cũng nhờ tinh thần võ đạo, mà những dị
biệt, những
xung đột với
những phương
cách làm việc khác nhau được bỏ qua… nhờ vậy
mà sự phát triển võ Đạo được
tồn tại,
lớn mạnh
và lan rộng ra toàn thế giới
.
Bất cứ
ngành học thuật
nào đạt tới
mức nghệ
thuật và dẫn dắt
đời sống
tinh thần của
con người thêm phong phú, thanh
cao, hướng thiện, đều
xứng đáng tôn vinh là “Đạo”.
Nhớ có tư
duy, trí tuệ, khả
năng phân biệt đúng sai, phải quấy,
tốt xấu,
thiện ác, óc suy luận, sáng tạo, và nhất là tính cần cù lao động; con người khởi thủy
từ ăn long ở lỗ,
nhưng đã vượt
lên thành chúa tể
muôn loài.
Song song với đời sống
vật chất,
con người cũng nâng cao đời sống
tinh thần qua các ngành văn hoá nghệ thuật,
trong đó có một số lãnh vực được
thăng hoa vi dịệu thành ĐẠO như:
Hoa đạo,
Trà đạo, Thư
đạo,
Kiếm đạo,
Võ Đạo v.v… sản sinh ra bao tư tưởng
triết lý thâm sâu, không kém phần thú vị và ích lợi cho nhân sinh. Nhưng đó không phải
là tôn giáo, người
ta tôn sùng vì phù hợp
với sở
thích, với quan điểm cá nhân, đến vì cơ duyên, bằng
sự tự
nguyện chứ
không khiên cưỡng hay ép buộc.
Đạo
mang ý nghĩa con đường,
suy rộng ra là hệ thống
triết lý. Võ Đạo tức
hệ thống
triết lý về võ, vạch ra khuynh hướng và đường hướng tu dưỡng, rèn luyện cho người tập võ , để thể
chất và tinh thần được
nâng lên đỉnh cao, hình
thành tính chịu khó, kiên nhẩn, không ngại gian khổ, vượt
thắng chính mình, tính kỷ luật
trong sinh hoạt tập thể,
sự điều
độ trong đời sống
hàng ngày, kiểm soát được hành vi trong xử kỷ
tiếp vật,
giàu trí tưởng tượng và phát triển óc sáng tạo. Hơn nữa,
võ đạo tạo
được sự liên kết, tương
thông, mối đồng
cảm giữa
các cá thể, dù thân hay sơ, xa hay gần. Đó là kết quả
của nền
võ đạo chân chính.
Tư
tưởng triết học
võ đạo phải
được sản sinh từ các hoạt động
sống của
võ, từ những
người đã thấm nhuần,
tinh thông võ thuật
chứ không thể lượm
lặt qua các lảnh vực
triết học
khác. Mẫu số chung của các ngành triết học
là phục vụ
loài người, nhưng từng
nét riêng không thể
nhầm lẫn
gán ghép với nhau; cũng
không thể lấy
khuôn vàng thước ngọc của
tôn giáo lồng vào hệ tư
tưởng của võ và cho đó là võ đạo. Tư tưởng
võ đạo phải
đầy tính nhân bản, không được xa rời thực
tế; nếu
không, chẳng thể nào xâm nhập vào tâm hồn người,
nói chi đến việc được
số đông ủng hộ.
Ngoài ra, một số mặt
khác cũng không kém phần
quan trọng, thuộc hệ
tổ chức
bộ máy. Các bộ phận
hành chính, huấn luyện, thông tin, nghi thức, nghiên cứu, tài chính, lễ hội…
phải được
bố trí vận hành nhịp nhàng, hiệu quả.
Điều cốt
lõi nhất vẫn
là xây dựng được
mối quan hệ thật
tốt đẹp
giữa người
và người, trong cũng như ngoài môn phái. Chính những
tình cảm tốt
đẹp ấy
chứng minh hùng hồn tinh thần võ đạo thật
sự hữu
ích chứ không nói suông theo sách vở giáo điều.
Phải xuất
phát từ lòng ham thích, đam mê, mới thấy
được từng góc cạnh thú vị của
Võ. Phải tư duy sâu lắng mới
nghiệm ra được chiều thâm viễn tàn ẩn của
võ đạo. Một
nét phát đơn sơ, nhưng
chính là phức hợp
của nhiểu
chuyển động;
câu nói tưởng chừng vô nghĩa nhưng bao hàm một triết
lý cao xa. Mỗi
lần hít vào thở ra, cảm thấy
luồng chân khí luân lưu rần
rần trong huyết quản,
ánh mắt như
loé hào quang, quyền cước
như sao sa chớp giật,
bước chân thoăn thoắt như
phiêu hốt, thân pháp xoay lướt tựa giao long uốn khúc giữa ba đào.
Mặc ai đua chen tranh sống, ta chỉ cố
chiến thắng
bản thân mình. Vượt được một thử
thách, trong lòng chất
thêm một niềm
vui, đạt được
một công phu, tinh thần càng thêm sảng khoái. Trong khó khăn nghịch cảnh,
chính võ đạo là người bạn trung thành nhất, người
thầy tận
tâm nhất, nguồn năng lượng vô tận cung cấp cho tâm thân luôn sung mãn an
nhiên.”
Thất Sơn
Thần quyền
ngay bản thân tên gọi của
nó đã chỉ ra xuất xứ
của nó. Đây là một môn phái không chỉ là võ học mà căn bản của
nó vẫn là Đạo học.
" Đệ tử
của Thất
Sơn không chỉ
được học quyền
mà còn học pháp, Quyền chỉ
là phương tiện để
dẫn pháp, chứ không phải để
đi đánh nhau ,Tất
nhiên lúc đánh vì mục
đích chính nghĩa thì cũng vô cùng huyền
diệu, một
đòn vào người, dù đối phương
không thấy đau lắm, nhưng
về nhà cũng đủ thối
da thối thịt.
Đệ tử
nhập môn, bao giờ cũng phải học
quyền. Nhiều người
học quyền
mãi mà chẳng thăng tiến về
tâm, về pháp nên cứ tưởng
là cứ giỏi
quyền là đã thành tựu.
Cao hơn quyền,
nhiều đệ
tử phát triển về
pháp. Pháp trong môn cũng vi diệu
là khó tin đối với quảng
đại quần
chúng. Nếu muốn
biết về
một người,
dù cách cả ngàn cây số, cũng có thể biết
người ấy đang nghĩ gì, có gặp sự
cố gì không. Pháp của môn có thể cầu
nắng thành mưa, có thể
cầu người
sắp chết
được sống.
Có thể xin thần linh thổ địa,
đuổi trừ
tà ma, chữa người điên thành lành... Tất cả
những điều
này, người trong môn vẫn đang thực hành. Pháp thì cao, nhưng không phải
lúc nào cũng làm. Làm thế
có mà loạn. Lúc nào ra tay giúp người, lúc nào không, cái
gì đáng làm, cái gì không, mỗi
đệ tử
trong môn phải tự định
đoạt (nói những người
có khả năng thôi). Nếu không, đều có thể phải
trả giá. Để có pháp. không phải cứ
khổ công tu luyện hay đọc chú là được.
Tuỳ vào tâm đức vào kiếp trước
của anh đã tinh tiến đến
đâu thì khả năng phát triển đến
đó. Điều này vô cùng quan trọng. Do đó, đệ tử
lâu năm trong môn không có nghĩa là người
giỏi. Giỏi
hay không, hoàn toàn phụ
thuộc vào tâm đức và sự khai mở từ
những kiếp
trước. Và vì phụ thuộc
nhiều vào tâm đức, nên có những tên tuổi ngày trước đã lẫy lừng,
mang tính huyền thoại, thì giờ, do làm nhiều việc
phạm, do làm nhiều việc
không có tâm đức, đã mất hẳn
quyền pháp, trở nên vô dụng. Cái sự khó trong khi tu tập trong môn là như vậy
nên tìm được đệ tử
chân truyền là cực hiếm.
Người này hôm nay có thể có tâm tốt, ngày mai có thể hỏng.
Mà cái khó nhất là nhiều khi sai mà không biết mình sai. Phạm lỗi
nhiều mà tự mình ko thể nhận
biết mà sửa chữa.
Hậu quả
nặng nhất
mà một đệ
tử có thể phải
chịu khi phạm lỗi
tất nhiên là bị đuổi
ra khỏi môn.
Nhẹ hơn
thì mất hết
quyền, pháp. Khi sư phụ
chọn đệ
tử, là sư phụ
đã biết đệ
tử ấy
kiếp trước
đã tu tập đến
đâu, tâm đức đong được mấy thúng. "
Thất Sơn
Thần Quyền
chính tông gồm 2 phần: Quyền và thuật. Quyền là phần "dương công" gồm những
thế võ cận
chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần "âm công" huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực.
Chỉ đệ
tử duy nhất được
chọn kế
thừa chưởng
môn mới được
sư phụ
truyền dạy
phần "âm công”.
Do có xuất xứ
từ vùng Bảy Núi linh thiêng nên người đời gọi
là Thất Sơn
Thần Quyền.
Môn võ này có 4 phần
luyện là Tam Đạo nhất
Thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là Tâm Đạo, định
thần dưỡng
khí gọi là Thể Đạo,
luyện thân tráng kiện gọi
là Quyền Đạo.
Phần luyện
thứ tư
gọi là luyện Thần.
Trong các môn phái bùa phép hầu như
phái nào cũng có bùa gồng , như là, gồng
Trà kha, Thất sơn thần
quyền , bùa Miên , bùa Xiêm , bùa 5 Ông
, Phật huyền
môn vạn thiên giới linh , Thần quyền
lục pháp.
Môn phái Thất
sơn Thần
quyền tôn đức Quán thế âm Bồ
tát là Tổ sư
và có thêm 8 vị đại
diện nữa
thay mặt sư
Tổ truyền
dạy cho các môn đồ . Tám vị Thần
đó là :
1, Hỏa Hỏa
Chơn Chơn,
2/Bá Thiên Đạo
trưởng.
3/ Thanh Trúc Đạo
trưởng.
4/ Hoàng Thiên Đạo
trưởng.
5/ Sa Thiên Đạo trưởng.
6/ Nga Mi lão Tổ.
7/Ngư Câu lão ông.
8/ Bá Hành ngũ độc.
Để có thể gây hào hứng , giúp quá trình luyện tập
được chăm chỉ, Thày Chàm dạy cho tôi phần Quyền
thuật đầu
tiên. Đây là chương
trình sơ cấp
cho những đệ
tử thi lấy đai vàng . Phần này đã khá phổ biến
với những
người học TSTQ nên dienbatn có thể viết
ra một số
bài tập ( Nhưng các câu chú đã bị
cắt bớt
) để các bạn có thể hình dung .
* Chú hộ mạng
trước khi ra khỏi nhà : Tứ tung ngũ sắc, quả
lắc nhập
môn, đương in hoành ngộ kiêm xuất hành cấp cấp
y như luật
lệnh.Chế
búp thăng ni sống ca ra sép (
3x ).
* Chú tẩy uế
sân trước khi tập : Á á a ra hăng á (Đọc 7 thổi 1 ).
* Chú tẩy uế
dọn dẹp
bàn thờ :
Búp thăng bạch cho khóa mì.
Thơm măm bạch
cho khóa mì.
Son khăn bạch cho khóa mì.
Chu chê xu mì.
Vẽ Bùa và đọc chú vào giấy trắng
đốt trên ban thờ.
* Chú kêu tên Thày : Búp tha. ( Đọc
liên tục khi cầu Thày Tổ ).
* Chú khoán sân trước
khi tập : Á á a ra hăng á (Đọc 7 thổi 1 ).
* Chú dùng luyện hàng tháng : Xế xây cà ra mây - No thăn ngăn chế á an sa giá mắc cà , na nu hi tê .
( Đọc 3 thổi 1 đủ
7 vào giấy ).Xử
dụng Bùa này uống hàng tháng.
* Chú cầu Phật
về trợ
giúp :
Út da măng kính cầu
Quán thế âm Bồ
tát về tự
.
Hỏa hỏa
chân nhân ba dương Đạo
trưởng.
Như câu lão ông.
Thanh trúc Đạo
trưởng.
Bá hanh ngũ độc.
Ngư thiên Đạo
trưởng.
Đọc 1 lần
để cầu
trợ giúp rồi vái 3 vái.
* Chú đọc khi đi đường trừ nguy hiểm : Khi đi đường mà gặp nguy hiểm đọc
bài chú này sẽ có Tổ độ
.
Tá ba à ha - Ý ý rị
- Ta bà ha - mặc hắc a - Bà ra ra - Chú y hi - Thần ma ra lục sân ra - Phát bá ra - Ta bà ha -
Na hà na hà rị - Rị rị
đà . ( Đọc 3 lần
hít vào ). Đọc tiếp Ề
hế tuần
phùng chua lục cu ( 7x ) - Chắc đốt
năm - Phinh tà căng - Sanh phát quô ( Đọc
7 lần trong 49 ngày ).
BÙA HỘ
MẠNG.
Bùa hộ mạng
còn gọi là Bùa tàng hình , là bảo vật
quý giá và cao nhất
của môn phái Thất sơn
Thần quyền.
Người có được Bùa này phải tuân thủ đúng nội quy , không được dùng trong những trường
hợp thất
đức hay phi pháp. Bùa này dùng thay
thế tượng
Phật hay ảnh trên bàn thờ khi đi xa nhà ( tương tự như
Kính đàn bên Mật tông ). Để đảm
bảo tính mạng , khi ra khỏi nhà luôn mang theo người. Khi chữa bệnh
cho mọi người
thì để bên mình sẽ không mệt và làm có hiệu quả.
Khi phát triển cho môn sinh
cũng vậy. Dùng khi trị bệnh
tà ma, ngải , thư , ếm
. Đem theo khi vào chiến
trận , súng đạn , bom mình hộ thân . Nói chung là luôn mang theo
người khi đi ra khỏi nhà , phòng ngừa bị
đánh trộm, đánh lén, tai nạn xe cộ . Mọi
tai nạn sẽ
được báo trước để mình tránh .
Cách sử dụng
:
Khi đi xa cầu
:
Con cầu xin Phật quán thế âm Bồ
tát - (9x ).
Con cầu Tổ
phái Thất sơn
Thần quyền
( 3x ).
Nam mô trung Thiên giáo chủ
điều ngự
Đạo sư
A di đà Phật .
Thần kim ngưỡng vọng Bạch
văn Thần trị
, Sơn thọ
sắc Lão quân Tổ , Pháp Tam thanh thừa trị
. Đệ tử
con tánh danh ......tên ....tuổi
...quê quán .....Con xin khấu
đầu khấu
nguyện , vạn
bái cầu xin Bồ tát, Phật Tổ
, 7 vị sư
phụ Thất
sơn Thần
quyền cho con được phép mang theo và sử dụng
Bùa .
Sau đó cầu 7 vị
Thần phép : Nàng Ràm, nàng Rây , bèn
khen bền ây - Nền nà nền ôi - A ra hăng á - Nam mô Quán thế âm Bồ
tát - Á thá chơn nhân hỏa hỏa
( 9x ).
LỜI VÁI :
Nam mô A di đà Phật.
Phục vọng
Hoàng Thiên hậu thổ , Phật Tổ
, Phật Thày , Tam thập lục
Tổ, Thất
thập nhị
Thánh , nhị hiệu lục
bộ đài quân , Du Thánh du Thần cảm
ứng , Phật Mẫu
hộ độ
tu luyện cho thành Đạo.
Nam mô A di đà Phật.
9 phương Trời 10 phương Phật , thập phương
tiếp dận
A di đà Phật , Quán thế âm Bồ
tát , Đại thế
chí Bồ tát , Thích ca mâu ni Phật , Phật Bà Thiên tài long nữ , Quan Thánh Đế quân , Quan Châu quan Bình , Quan
chư vị,
Thất sơn
Tổ , Tà Lơn về
độ cho đệ tử
tánh danh ......tên ....tuổi
...quê quán .....tu luyện
thành đạt. ( 3x ).
Khi vào chiến trận súng , đạn, bom , mìn , dao , gậy mà không có thời gian chỉ cần
cầu 3 câu đầu tiên. Trùm Bùa ( mặt phải
) lên đầu và đọc chú :
A la cà xa măng xét xa ô.
La vi nô hoa , hu hạ,
ni vu lô.
Oa oa mi la sơn thủy độc.
Mi hoàng sơn thủy cùng xa.
Tây la vân sơn đá ơ vệt.
( Khi cầu đọc
1 lần - Khi sử dụng
đọc liên tục ). Lúc đó sẽ hiện
ra 3 con đường - Phải đi theo con đường màu vàng sẽ an toàn.
Ghi chú : Khăn tối
thượng được in bằng bản
khắc của
sư phụ
Ngọc Sơn
còn để
lại tại
Phú Vang - Huế . Khăn này in
và cấp cho các đệ tử
cấp cao . Rất nhiều
đệ tử
của TSTQ chưa bao giờ được
nhìn thấy.
Xin theo dõi tiếp
bài 28. dienbatn.

_______________
Nguồn:
sưu tầm




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét