CUỘC
CHIẾN GIỮA
CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 30.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
PHẦN 3 : NHỮNG CUỘC
LỮ HÀNH.( Tiếp ).
1.SƠ LƯỢC
VỀ LỊCH
SỬ VÀ LÝ THUYẾT TRẬN
ĐỒ BÁT QUÁI .
Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật
-Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả
các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều
sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận
hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật
tự nhất
định.
ĐỊA ĐẠO
:Thủy -Hỏa-Phong
châu lưu khắp
nơi nhằm
sinh hóa và nuôi dưỡng
vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn
của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới
minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng
,nghỉ tức
là hoại ,là diệt.
Một Cảnh
giới hài hòa tạo được
sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người
tức là cả ba thành phần phải
tốt tương
ứng thể
hiện đủ
đức tính của Đại
đạo.Vì thế ,các bậc Tiền
nhân luôn có ước muốn tạo
cho mình và cộng đồng một
Cảnh giới
Chân -Thiện -Mỹ,họ
chiêm nghiệm ,học hỏi
từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng
Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân
sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng
Quái đồ,Hà Lạc.
2.NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU
VŨ TRỤ.
Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư
phải học
hỏi để
hiểu biết
nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt
và gần 1.000 huyệt nhỏ
khác,cũng có Khí,có Thủy,có
Hỏa,kinh lạc như
Đại
Vũ trụ bên ngoài.Phải biết
kết nối
các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo
Thuật để
đạt được
đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới
tìm hiểu biết
về Đại
Vũ trụ,tầm
Long,tróc mạch những nơi
"Tàng Phong tụ Thủy
",là những nơi có Huyền
lực của
Thiên Địa làm ảnh hưởng
thăng hoa vật chất và nhân thể.
Điểm Huyệt
trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt
trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng
đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do
vậy,các Phong thủy sư
phải rèn luyện Đạo
thuật,nhằm
khai mở Tâm năng,khiếu Cảm
xạ,Thấu
thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của
các bậc Tiền
nhân là căn bản cho sự nhận
định và luận chứng
Huyệt mạch
Phong thủy mà thôi,chứ việc
Tầm Long ,trích Huyệt rất
phức tạp
và đa dạng.
Tâm năng của con người gần như
bất tận
nếu biết
rèn luyện,khai thác đúng mức những
khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:
-Cảm xạ
các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước.
-Thần giao cách cảm.Tương
tác giữa người
này và người kia.
-Sử dụng
tâm năng Tiên đoán,thấu
thị.
-Hóa giải theo ý muốn.
Biết được
Thiên vận,Địa
thế,Nhân cơ,các nguồn
thông tin,dữ liệu từ
Vũ trụ.
-Sử dụng
Tâm năng trong Y học
trị liệu,giải phẫu...
-Trị liệu
bằng Trường
Sinh học.
Ngày xưa ở
Trung quốc,Việt
nam và các nước Chấu Á đều
có Kỹ thuật
xây dựng,kiến
trúc theo Phong thủy
căn cứ vào 4 yếu tố
:HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.
1/KHÍ :là Năng lượng
Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật
thể,Đất,Nước,con người..
2/LÝ :Là quy luật
vận động,vận chuyển ,tạo
tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm
ba nguyên tắc :
a/Trời chưởng
quản Địa,Nhân.
b/Trời,Đất
đều tác động đến
Vật chất
và con người,nên phải biết
vận dụng
ảnh hưởng
này nhằm tạo
yên vui cho cuộc sống.
c/Vận mạng
,hạnh phúc của người
sống tùy thuộc ảnh
hưởng của người
chết,tức
là Âm trạch.Do vậy người
xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết thì xem cái mồ ".
3/SỐ :Là những tượng
số của
Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào).
4/HÌNH :Là hình thể
vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng
tốt đến
mạch khí.
Ngoài 5 thành tố
Kim-Mộc-Thủy
-Hỏa-Thổ
sinh và khắc chế ngự
lẫn nhau.Yếu tố
được xem là thuận lợi
khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của
Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính
hai lực này chi phối,ảnh
hưởng đến hoạt
động của
Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết
quả xấu
cho con người trong cuộc đất
này hay Dương trạch họ
đang ở,hoặc
Âm trạch táng tử thi.Nếu hai lực kết
hợp tốt
thì Vận mạng
của con người sẽ tốt,sức khỏe
dồi dào,kinh tế phát triển lên mãi.
Do vậy,Phong thủy là một bộ
môn học thuật
dựa trên Minh triết của
Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền
môn Khoa học cổ xưa
đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học
thuật tối
cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất
định.
3.PHONG THỦY.
Phong : Là Gió.
Thủy :Là nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh túy của Đất,sự
lưu chuyển của
ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận
có sự dịch
chuyển để
sinh hóa thì Thiên vận
tùy theo nó.Thiên vận
có sự biến
đổi thì Địa khí tương ứng với
nó.Thiên khí vận động ở
trên thì Nhân khí tương
ứng với
nó;Nhân vận động ở
dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng
theo.Như vậy
chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dương
là Đạo
(Nhất âm nhất dương
chi vi Đạo
).Một tĩnh ,một động
là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc
thư hợp
thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương
hay thuần Dương,số chẵn
là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách "CHÍNH QUYẾT
CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục
Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ
Long môn đến Lã Lương Sơn,Từ
Lã Lương Sơn hướng
về Thái hành sơn chảy
qua Kiệt Thạch
sơn vào biển
lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ
phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ
Nam chuyển hướng
lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng
hà chính là dải đai các núi
Nhũ nhạc triều
bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo
địa.Cũng là nơi xuất
hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng
tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh
An huy ) kẹp giữa ;như
vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải
Hoa sơn trở
xuống (Vùng đất này ngày xưa là của
Việt tộc
).Nhưng rồi
Thiên vận hướng
Can Long xuôi theo về
hướng cực Nam để rồi
kết thành một vùng Bảo địa
hay Linh địa.Có Linh Tú
khí.Quách Đại Quân viết rằng
:"Ta xem núi non ở
Giao châu phần lớn Long mạch đều
xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dư
thừa các con sông từ đất
Ba Thục;Long mạch chảy
qua cuồn cuộn
không dừng thẳng
đến đất
Giao châu,nên nước
ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa".
Nền Phong thủy của
Việt nam chúng ta dựa trên học thuật
của Tổ
tiên,ông cha truyền
khẩu,bao nhiêu sách vở từ
xưa đã bị
tiêu hủy trong thời chiến
tranh bị đô hộ
Bắc thuộc.
4.TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP
ÂM CHẤT.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập
âm chất,nhi hậu tầm
Long ".
Người người đều muốn
có được một Địa
trạch tốt
tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống
vật chất
đầy đủ,công
danh hiển hách,vợ đẹp
con ngoan,Gia đình hạnh
phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết
:"Trong nhà có người
đức hạnh
cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định
có Linh khí ".Qua câu nói trên tức
là con người làm chủ Linh khí vạn vật
do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sư
không hiểu điều
này thì dủ có Trích Huyệt Tầm
Long được Bảo địa
cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc
Tầm Long Địa Huyệt
còn phải hội
thêm phần cảm
ứng tức
là Thiên Đạo (Đạo Trời
);sự ứng
nghiệm của
việc hành thiện lập
âm chất,tạo
nhân quả tốt.Tục ngữ
có câu :"Âm địa
tốt không bằng Tâm địa tốt
".Do vậy,tìm kiếm chọn
lọc được
Địa mạch
Huyệt vị,Phong
Thủy Sư
phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu
kẻ nào có phẩm chất
cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ
ứng,Địa
cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt
lành cho con cháu đời
sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện
lương thì tương ứng với
Địa mạch
cát lợi ,vận
Trời ứng
cho,chứ chẳng
phải chủ
quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng
rằng tầm
được Long huyệt rồi,con
cháu đời sau sẽ được
hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết
gì cả.Nếu
như các Phong Thủy
Sư họ
tài giỏi như
thế thì ắt
họ phải
giành những huyệt Đế
vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ
dại gì mà họ chỉ
cho ai ?
Ví như Phong Thủy Sư
Cao Biền thời
Thịnh Đường
được Vua cử làm An nam Tiết độ
sứ đô hộ
nước ta,thấy đất
Giao châu kết huyệt Đế
Vương rất nhiều
nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết
của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao
Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước
Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy
bay khắp nơi
yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại
rất nhiều
Long mạch.Nhưng
ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị
triệu hồi,phải bỏ
thành Đại La.Đất Việt
là Địa Linh thì tất phải
có Nhân kiệt,nối tiếp
người xưa đứng
lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng
cho dân tộc.
HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học
thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy
Tâm làm gốc và đó cũng
chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm
ứng của
Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng
nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng
cùng Tâm khí con người.Quách
Phác nói :"Cát hung cùng cảm
ứng lẫn
nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng di hài Tổ
tiên,chắc người
ta phải chọn
Địa huyệt
thật tốt
mà an táng,song song với
việc trên ,người tại tiền
phải nỗ
lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy
gốc rễ
của Đạo.Nếu chỉ
chú trọng quan sát hình thể Địa
huyệt,sẽ
cho kết quả
trái ngược,làm tổn hại
đến con cháu đời sau.
Nếu như
có Nhân,tất phải
có Quả;nhưng
Nhân -Quả thiện
ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy
họa phúc.Cũng như ngày xưa
có người chết được
Thiên táng hay Địa
táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường
hợp như
thân Phụ của
ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của
nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều
đời nên chiêu tập được
Nhân -Quả,được
Trời -Đất
cho hưởng Phúc,đâu phải tầm
Long trích Huyệt mới được.
Triệu Quang viết cuốn
:"PHONG THỦY
TUYỂN TRẠCH
TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân
duyên mà được Huyệt tốt
".Dẫu cái tốt,xấu
của Phong thủy Huyệt
mộ ảnh
hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức
của con người có thể cải
biến được
Vận -Mạng.Đến như
các bậc Tiền
bối Phong thủy như
Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa
,nhưng khi gặp Huyệt
Đế Vương
cũng không dám dành cho mình,bời biết
đạt Địa
lợi,nhưng
Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc
"TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI
HẬU TẦM
LONG " của người xưa dạy
quả không sai.
5.PHẦN TẦM
LONG -CẮM HUYỆT
:
Phong Thủy Sư
quan sát Thiên văn,xem tinh tú trên trời.Sao Tử vi ở
phương Bắc;Sao Thiên thị ở
phương Đông;Sao Thiếu vi ở
phương Nam;Sao Thái vi ở phương
Tây,nhìn địa
đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương.Lấy tứ
chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long,và bốn cung Chấn -Tốn
-Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ).Một ngọn
núi nhô lên đơn độc
gần một
ngôi làng nào đó,thấy
cảnh vật
xung quanh xinh đẹp,trên
núi xuất hiện
nhiều kỳ hoa ,dị thảo
thì phải biết
đó là Long,phải biết phân biệt đầu
,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ vệ
sơn chạy
đến đâu.Đối chiếu
xem vì sao nào chủ
chiếu cuộc
đất này,xem cục thế
lớn,nhỏ,tốt xấu.Sau
cùng quan sát xem tính tình,ăn ở
của dân địa phương
nơi đây thì ta mới
nhận biết
được đó là Chân Long hay
giả Long.
Kinh Thư có viết
:"Tinh tú trên Trời
và Địa thế
dưới đất luôn tương hỗ với
nhau,Phong thủy Bảo địa
tự nhiên sẽ thành...Dương đức
sẽ hình thành từ thân thể của
ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị
trí ăn ở cư
xử thiện
hạnh của
ta ".Tóm lại
thuật Sư
Phong thủy phải
tiến hành tính toán,nhìn thấy những
điểm then chốt thỉ
việc tầm
Long mạch ắt
phải sáng tỏ.
MINH SƠN BẢO
GIÁM chia Long ra làm 12 loại
:SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG
LONG,ẤP LONG,UỔNG LONG,SÁT LONG,QUỶ LONG,KIẾP LONG,DU LONG,BỆNH LONG,TUYỆT LONG,TỬ LONG.Các tên này nhằm chỉ
vào sự tán tụ của
chân Khí mà gọi.SINH LONG,PHÚC
LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG là bốn loại
Chân Khí hội tụ,còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình thể của
Long ngắn,gấp
khúc ít lần đi lên,xuống hoặc
đi lên mà không đi xuống,xuống mà không lên,cho nên nó làm cho
mạch Khí thế đi xuống.Còn tụ Chân Khí thì trải dài ,lên xuống theo hình thể nhiều
lần.
Tổ tông sơn là nơi
xuất phát Long mạch,theo đường hướng mà đi xuống,đoạn
ẩn ,doạn
hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ
đoan chính thì gọi
đó là SINH LONG.
Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi
thì gọi là PHÚC LONG.
Loại Mạch
này mà không có Hoành án mà chạy
hai bên,ôm vòng trở
lại thì gọi là ỨNG
LONG.
Long mạch ôm vòng trở lại
nhiều lần,khí
trùng điệp,hình dáng giao đầu lẫn
nhau gọi là ẤP
LONG.
Long mạch hình thế hiểm
ác,gấp rút,trùng điệp,nhưng
không đối
xứng chỉnh
tề gọi
là UỔNG LONG.
Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn
gọi là SÁT LONG.
Loại phân chi,chia cắt mạch
gọi là QUỶ LONG.
Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG.
Loại mà Khí lưu ly,tán loạn khắp
nơi gọi
là DU LONG.
Mạch Khí không lên,xuống,không chuyển động
gọi là BỆNH LONG.
Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG.
Mạch nằm
riêng biệt không hộ,giáp,triền và không có Khí lực gọi
là TUYỆT LONG.
Các Long mạch ứng chuyển thuận
khí theo THIÊN -ÐỊA
-NHÂN thì tác động
cho những âm phần táng trong cuộc đất
như :
SINH LONG thì
con cháu ðược
hưởng Phúc ,Thọ.PHÚC LONG thì con cháu Phú quý.ỨNG LONG thì con cháu giầu có,hiếu thuận.ẤP LONG thì con cháu Lễ ðộ
,nhường nhịn,thuận
hòa.
SÁT LONG và KIẾP LONG thì con
cháu bị tai họa,chết
chóc.QUỶ LONG và BỆNH LONG thì con cháu bị bệnh
tật,không an cư,nghèo khổ.DU
LONG thì con cháu hoang đàng,dâm loạn.TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử
thương,tuyệt tự,không
có người nối dõi Tông đường.
12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần,quan hệ đến
người còn tại tiền,nên
vì thế khi mai táng cho người chết,không thể không lựa chọn
đất cắm
Huyệt.
Ngoài ra còn những
thế đất
của Tứ
Linh và có 5 thế
núi căn cứ vào hình dáng,tư thế
mà chia ra làm 9 RỒNG
:
1/XUẤT
DƯƠNG LONG.
2/SINH LONG.
3/GIÁNG LONG.
4/PHI LONG.
5/HỒI
LONG.
6/NGỌA
LONG.
7/ẨN
LONG.
8/ÐẰNG
LONG.
9/LĨNH QUẦN
LONG.
Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU
:"Phong thủy
Ðịa lấy
Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem
Phong thủy chính là quan sát sự thuận
ứng nghịch phản
của Sơn
và Thủy,Khí cứng rắn
nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly,hội hợp
của tụ
và tán. Phong thủy
tốt là mạch địa
thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa
mạch hoạt
bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng,
đứt đoạn
rồi lại
nối liền.Ðịa mạch
xuất hiện
ở giữa,xung
quanh có Sa trướng trùng
trùng.Sa trướng của nó có gần có xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi
hiệp cốc
xuất hiện
,chúng đều thu giữ Ðịa
Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc
) vậy,có nơi tạo
ra thế cử
đỉnh,có chỗ tạo
ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của
Ðịa mạch
không bị đứt
đoạn,khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc
,thì Ðịa mạch
lại tựa
như hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh
và hai bên của Ðịa mạch
sáng sủa lại
cùng tương ứng với
Tinh thần,tựa
hồ như
sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi
này.Triều sơn
ở xa thì đẹp đẽ,muôn
hình vạn trạng.Minh
đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu
giao kết ,uốn
lượn xung quanh,bốn phương
tám hướng không có nơi nào bị
khuyết hãm.Ðịa Huyệt
hạ lạc
kết Huyệt
ở nơi
này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ
cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế
tròn và nhọn cùng đối ứng
với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao
quanh nơi này;Sơn
trong Sơn ngoài cùng tụ
hội.Nơi
được
như vậy
được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy."
Như vậy
chúng ta thấy rằng , việc đầu
tiên của một
nhà Địa lý - Phong Thủy là phải " cân " được Phúc đức của
Gia chủ mà hãy chọn Địa
Huyệt cho tương xứng . Nói nôm na là nếu Phúc đức của
dòng họ người
ta mới như
nguồn điện
110 v thì phải đặt vào Địa Huyệt
có tầm cỡ
110v , nếu Thày tham hoặc thân chủ tham , chọn Địa
Huyệt có năng lượng 220 v , thì lợi thành gia hại , có khi là tuyệt diệt
cả dòng họ người
ta . Thày thuốc lỡ tay khi mổ bất
quá chỉ thiệt
hại một
mạng người
. Thày Địa Lý vì chủ quan hay sơ xuất
, thậm chí làm hại cả
họ nhà người ta . Do vậy , cả
Thày và Gia chủ phải hết
sức cẩn
thận từng
ly từng lý , phải soi cho rõ ngọn nguồn
hãy bắt tay vàp Phân Kim , Cắm Huyệt
.
6.SƠ LƯỢC
VỀ TRẬN
ĐỒ BÁT QUÁI .

Trong các cuộc
chiến tranh ngày xưa , người ta rất chú trọng đến
việc lập
trận . Kể
từ những
cuộc chiến
của thời
Tam quốc với
những cách Trận đồ
Bát quái của Khổng minh Gia cát lượng đến những
trận đồ
của phương
Tây như trong trận OATECLO của NAPOLEON . Như vậy
, việc thực
hiện Trận
pháp là hoàn toàn có thật
và đã đạt được
những hiệu
quả rất
cao . Trận pháp là một môn nghiên cứu đỉnh
cao của nghệ
thuật quân sự hàng ngàn năm nay . Tại Việt
nam chúng ta cũng có cuốn
sách : Vạn Kiếp
tông bí truyền thư của
Trần Hưng
Đạo
về nghệ
thuật quân sự, có lẽ chủ
yếu là bày binh bố trận,
nhưng đến
nay đã bị thất
lạc. Ông sưu tập
binh pháp các nhà, làm thành bát quái cửu
cung đồ, và đặt tên tác phẩm như
vậy. Người
ta chỉ còn biết được
một ít nội dung tác phẩm này, qua lời đề
tựa của
Nhân Huệ Vương
Trần Khánh Dư vẫn
còn lưu giữ
được.

Trong lời
tựa của
Trần Khánh Dư : " Người giỏi cầm
quân thì không cần
bày trận, người
giỏi bày trận thì không cần phải
đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không
chết.
Ngày xưa,
Cao Dao làm
sĩ sư mà không ai dám trái mệnh,
đến Vũ Vương, Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương, ngầm lo sửa đức,
để lật
đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế
là người giỏi cầm
quân thì không cần
phải bày trận vậy.
Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu
Miêu đến chầu,
Tôn Vũ nước Ngô đem người đẹp trong cung thử tập
trận mà phía tây phá nước Sở mạnh,
phía bắc uy hiếp nước
Tấn, nước
Tần, nổi
tiếng chư
hầu, thế
là người khéo bày trận không cần phải
đánh vậy. Đến
Mã Ngập (Sách Tấn thư
chép là Mã Long) nước Tấn theo bát trận đồ,
đánh vận động
hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ
Năng để
thu phục Lương
Châu. Thế gọi
là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.
Cho nên trận nghĩa là
"trần", là bày ra, là khéo léo.
Ngày xưa, Hoàng Đế
lập phép tỉnh điền
để đặt
binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ,
Vệ Công sửa lại
làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận
có vẽ các thế trận
hay, trình bày thứ
tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người
đương thời ít ai hiểu được,
thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm,
chưa từng
biến đổi.
Như Lý Thuyên có soạn
những điều
suy diễn của
mình (sách Thái bạch
âm kinh nói về binh pháp), những người
đời sau cũng không hiểu ý nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu
đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả những
việc nhỏ
nhặt, nhưng
người dùng thì nên bỏ bớt
chỗ rườm
rà, tóm lược lấy chất
thực.
Sách gồm đủ
ngũ hành tương ứng, cửu
cung suy nhau, phối
hợp cương
nhu, tuần hoàn chẵn lẻ.
Không lẫn lộn
âm với dương,
thần với
sát, phương với lợi,
sao lành, hung thần,
ác tướng, tam cát, ngũ hung,
đều rất
rõ ràng, ngang với
Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn
ngự Hung Nô (ám chỉ nhà Nguyên), phía nam uy hiếp Lâm Ấp (Chiêm Thành). "
Trích từ
Đại Việt
sử ký toàn thư:
" Sau này, con cháu và bồi thần
của ta, ai học được
bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế
trận; không được ngu dốt mà trao chữ truyền
lời. Nếu
không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi
là tiết lộ
thiên cơ đó. "
Trong cổ
thi của Trung quốc có bài BÁT TRẬN ĐỒ
của ĐỖ
PHỦ ca ngợi Khổng
minh như sau :
Bát trận đồ
Công cái tam phân quốc
Danh thành Bát trận
đồ
Giang lưu
thạch
bất chuyển
Di hận
thất
thôn Ngô
Dịch Nghĩa:
Công lớn
trùm khắp,
nước chia làm ba
Nổi
danh trận
đồ Bát quái
Nước
sông cứ
chảy
đá không lay chuyển
Để
lại hận đă thất kế thôn tính Ngô
Dịch Thơ:
Bát Trận
Đồ
Võ công trùm lợp
thời
Tam Quốc
Danh tiếng
làm nên Bát trận
đồ
Đá vẫn
nằm trơ dòng
nước chảy
Hận
còn để
măi lỡ
thôn Ngô
Bản
dịch của Trần Trọng San
Tam phân quốc
công cao tột
bực
Bát trận
đồ danh nức muôn đời
Nước
trôi đá vẫn
không dời
Ngậm
ngùi nỗi
chẳng
nghe lời
đánh Ngô
Bản dịch
của Trần
Trọng Kim
Chú thích:
-Bát trận
đồ: do Khổng Minh thời Tam quốc dựng
thành, ở huyện
Phụng Tiết,
tỉnh Tứ
Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn
bị quân Thục vây hăm tại đây, nhưng nhờ
được nhạc phụ
của Khổng
Minh là Hoàng Thừa
Nghiện chỉ
đường nên ra thoát được
-Tam phân quốc: Khổng Minh chưa ra khỏi nhà đă biết thiên hạ thế
chia làm ba, Thục
Ngô Ngụy
-Thôn Ngô: Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả
thù cho Quan Vân Trường,
bị thua to về tay Lục Tốn.
Các sách cổ của Trung quốc cũng có rất nhiều
tác phẩm viết
về cách lập trận
như các cuốn
: DƯƠNG ĐẨU
NGU CƠ , THỦY
KINH CHÚ , VŨ LƯỢC
CHÍ , QUA KÍP ĐÀN BINH ...
Trong các loại hình thế trận
, người ta nghiên cứu phát minh ra nhiều loại
trận đồ
với nhiều
mục đích khác nhau : BÁT QUÁI TRẬN ĐỒ
, VIÊN TRẬN ĐỒ , PHƯƠNG
TRẬN ĐỒ
, TRỰC TRẬN
ĐỒ , KHÚC TRẬN ĐỒ
, NHUỆ TRẬN
ĐỒ TRƯỜNG
XÀ TRẬN ĐỒ
.....
SỬ DỤNG
TẬN ĐỒ
BÁT QUÁI :
Người ta có thể dùng TRẬN ĐỒ
BÁT QUÁI vào việc
TRẤN YỂM
một khu đất hay địa huyệt
nào đó với hai mục đích ngược nhau : Làm cho khu vực đó tốt lên hay là triệt phá Long mạch của
vùng đất hay Địa Huyệt
đó . Đó là hai chiều
tương sinh và tương khắc của
Ngũ hành - Âm , Dương
.
Việc
xây dựng một
TRẬN ĐỒ
BÁT QUÁI vì mục đích gì đi
chăng nữa , người Chủ trận
phải hiểu
tường tận cách bố trí Trận pháp . Ngoài việc xác định rõ vị trí của Huyệt
kết ở
đâu , hướng của Long Nhập thủ
như thế
nào trong 72 Long Thấu
Địa , Thiên Môn - Địa hộ
ở đâu , Tính chất Âm - Dương ,Ngũ hành của Khí Huyệt như
thế nào , người bố trí Trận đồ
phải rất
giỏi về
Ngũ Tử Khí Long ( Phận biệt
các loại Khí Hỏa Khanh , Không hư , Bảo
Châu ) , phải thành thạo các thuật Toán an Ngũ Thân , Lộc , Mã , Quý , Tứ cát , Tam Kỳ , Bát Môn , an các
Thiên Can , Địa Chi lên Bát
Quái Đồ Hỗn
Thiên . Những thuật này liên quan mật thiết
đến Thuật
tính Thái Ất , Độn Giáp .
Cũng trong thời
gian này , dienbatn có duyên được
các huynh Thiên Bảo
và Thiên Nhiên Kỷ
và các Huynh Đệ , Tỷ , Muội
tại ĐIỆN
ĐÀI THÁI BẠCH Phú Nhuận cùng rất nhiều
các cao thủ Huyền môn tham dự một
cuộc hành hóa khai thông Huyệt Đạo
. Xin chia sẻ cùng các bạn.
PHẦN
3 : NHỮNG
CUỘC
LỮ HÀNH.
( Tưởng
nhớ
đến công ơn dạy dỗ của Cha nuôi : LÊ VĂN
TÌNH – Ông Thày Bảy
TÂY NINH đã dìu dắt
con những
bước đầu vào HUYỀN MÔN ).
Cả
3 người Thày đầu đời
của tôi đều có sở học
xuất phát từ dãy Tà Lơn bên Kampot . Tuy chung một Thày , nhưng sở
trường của 3 người rất khác nhau. Bà Bảy học
chuyên về Thư
- Ếm – Ngải nghệ;Thày
Chàm thì chuyên về
Thất sơn
Thần quyền.
Còn ông Bảy lại chủ
yếu đi về Bùa chú Nam Tông . Thày Bảy tính rất điềm
đạm, ít nói nhưng đã nói điều
gì thường chắc chắn
như đinh đóng cột.Riêng
đối với
một đứa
con nuôi như tôi, bề ngoài ông rất lạnh
lùng, nghiêm khắc
, nhưng tôi biết
ông rất thương
tôi.Trong nhận thức
của riêng mình, nhiều lúc tôi còn thấy ông rất đa cảm nữa
là khác.Tính tôi tuổi
trẻ, còn nhiều bồng
bột , hiếu thắng,
lại thêm cái tội muốn
biết điều
gì thường phải truy đến tận
cùng.Chính vì vậy
mà trong giao tiếp
hàng ngày với các Môn phái
khác, tôi hay có thái độ
tự phụ,
ỉ i là mình có người chống lưng
nên nhiều lúc hay gây sự với
những anh em của các Môn phái khác.Khi nhận tôi là con nuôi, ông Bảy đổi
tên tôi là Lê Văn Hòa, lấy
theo họ của
ông , với mong muốn tôi sẽ hòa hoãn, kiềm chế
sự nóng nảy của
mình. Lúc rảnh rỗi, Ông Bảy thường
kể cho tôi nghe về những
tháng ngày mà ông bà Bảy
và Thày Chàm tu tập
trên núi Tà Lơn. Ngày xưa ,ông cũng là học
trò cưng của Đằng
chơn Thánh quân Lê Trung Thừa bên
Tà Lơn . Cụ
Đằng chơn
Thánh quân Lê Trung Thừa tu tập ở
Tà Lơn cùng thời
với Sư
bà Trúc Lâm Nương. Bà Trúc Lâm Nương, giáo chủ tiên phái Hồng Tâm cũng có thời gian dài tu tập tại
Tà Lơn. Trong các thư tịch,
kinh sách, lời kể của
các bậc tu hành vùng
An Giang cho thấy,
Phật thầy
Tây An Đoàn Minh Huyên, Huỳnh Phú Sổ
(Đức Huỳnh Giáo chủ), Bổn
sư núi Tượng
Ngô Tư Lợi,
Phật Trùm, Phật sống
Cử Đa, Sư vãi bán khoai…. đều
có thời gian tu luyện trên đỉnh núi thiêng Tà Lơn.
Núi Tà Lơn
( người Miên gọi là Bokor - tức là con bò ) cách Thị xã Kompot khoảng 10 Km về hướng
Tây Nam. Đỉnh cao nhất của
Núi Tà Lơn là 1.079m, vào mùa mưa
đầy
sương mù, cách 5m không nhìn thấy gì. Từ đàng xa chúng ta nhìn thấy núi Bokor giống như
hình thể một
con voi, chót núi luôn luôn bị
mây bao phủ trắng xóa. Núi Bokor được ghép lại bởi
ba trái núi, nên đường
từ dưới
lên đỉnh núi rất xa vì xe phải chạy
quanh từ núi này sang núi nọ, hết
cả ba núi mới đến
nơi.
Từ
Thị xã Kompot có hai con đường đi vòng quanh dãy Tà
Lơn : Một
rẽ bên phải là đường vào hồ Bokor và lên Chùa 500 vị Phật.
Sau đó đi lên Trung Toà, Hàm Long, Cán Dù...
Đường
thứ hai đi theo hướng về Công Pông Chàm, Công Pông Thơm đi khoảng
5 Km rẽ phải
vào Núi Năm Thuyền
có Chùa Năm Thuyền.
Tại đây có pháo đài Bokor, là bộ sưu
tập các tòa lâu đài (gồm khách sạn, casino, nhà thờ, cung điện…) được
người Pháp xây dựng từ
năm 1920.Nơi này , chính phủ Căm Phu chia đang cho xây dựng lại
Casino rất lớn
.Từ Chùa Năm Thuyền đi tiếp theo đường núi hiểm trở
khoảng 32 Km ta có thể đến
được khu vực đáng chú ý nhất của
dãy núi Tà Lơn - Điện Minh Châu , Điện Bình Thiên, Điện Bàn Ngự, Điện
Tứ Giao, Điện Lan Thiên...là nơi các vị
Tổ của
Huyền Môn , các vị lãnh đạo Đạo
giáo ngày trước chọn làm nơi tu luyện.
Trong " Sấm
giảng đời
người "của Sư
Vãi bán khoai có viết :
" Ngày xưa Phật ở nước Tần,
Rồi
sau Phật
lại đi lần về Nam. "
Câu đó có ý nghĩa về
sự chuyển
dịch trung tâm Phật giáo từ Tây Tạng sẽ
dần chuyển về
nước Việt, đồng
thời cũng chỉ rõ cho ta biết sự
chuyển động
và kết tụ
của Hymãlạp sơn
như thế
nào?
Về
kết cấu
Địa chất,
khu vực Tà Lơn hàng triệu
năm trước còn là biển. Qua những kiến
tạo địa
chất, được
dựng lên thành núi cao đến 1079 m. Bằng chứng
thấy rõ ràng nhất là bất cứ
ai bước chân đến Tà Lơn đều
thấy cát ở đây là cát biển trinh nguyên.
Thời
các vị tiền
bối đến
đây tu tập , Tà Lơn còn vô cùng hoang sơ
. Ta có thể hình dung quang cảnh xứ
này qua "Bài vè Tà Lơn
" trong tác
phẩm Thơ
Núi Tà Lơn của
nhà văn Sơn Nam :
'Tà Lơn xứ rày tạm con ở.
Làm lưới chài ngày tháng náu nương.
Gởi
thơ
về cho cha mẹ tỏ tường.
Cùng huynh đệ đặng cho hãn ý.
Kể
từ thưở bôn trình vạn lý.
Ðến
bây giờ
hơn bảy tháng dư.
Nghiêng mình nằm nhớ tới mẫu từ.
Ngồi
chờ
dậy ruột tằm quặn thắt.
Nhớ
huynh đệ
lụy tuôn nước mắt.
Cam phận em ruột thắt từng hổi.
Vận
bất tề nên phải nổi trôi.
Thời
bất đạt nên con xa xứ.
Xứ
lạ lùng con có một mình.
Cơn
nguy hiểm
lấy ai phò trợ.
Bởi
thiếu
thốn
bao nhiêu đồng
nợ,
Nay thân con phải chịu hoành hành.
.............
Việc
ăn ở
nhiều
nỗi đắng cay,
Vái trời phật xin về quê cũ.
Xứ
hiểm
địa chim kêu vượn hú,
Dế
ngâm sầu
nhiều
nỗi đa đoan.
Ngó dưới sông con cá mập lội dư ngàn,
Nhìn trên suối sấu nằm như trăm
khúc.
Nay con tới nguồn cay nước đục,
Loại
thú cầm
trông thấy
chỉnh
ghê,
Giống
chằng
tinh lai vãng dựa
xó hè.
Con gấu ngựa tới lui gần xó vách.
Bầy
chồn
cáo đua nhau lúc nhúc,
Lũ heo rừng chạy giỡn bát loạn thiên.
Trên chót núi, nai đi nối gót,
Cặp
giả
nhân kêu tiếng
rảnh vang.
Ngó sau lưng, con kỳ lân mặt đỏ như vàng,
Nhìn phía trước, ông voi đen huyền như hổ.
Hướng
đông bắc,
con công như
tố hộ.
Cõi tây nam, gà rừng gáy ó o...
Đọc
bài thơ đó chúng ta mới
hiểu và cảm nhận
được hết nghị
lực phi thường của tiền
nhân chúng ta trong tu tập.
Thức ăn chủ yếu
của những
người tu tập ở
đây chỉ là rau rừng và muối, ngoài ra họa hoằn
lắm mới
có thêm vài ràng bánh tráng, ít nước
tương, ít chao và ít đường
Thốt nốt.
Câu hát Modife “ Đường
,tương chao, đậu
hũ, dưa leo/Ai chưa ăn chưa
phải Thày chùa “ vẫn là những món ăn xa xỉ lúc bấy giờ.
Chính vì vậy mà Thày Bảy nói : các con cúng Tổ của
mình chỉ cần
ít bông , nhang, trái cây, vài ràng bánh tráng và chai nước tương là đủ.
Ở Tà Lơn có một
bông hoa màu vàng từ
một chùm dây bò như dây khoai lang, có đuôi phía dưới như đuôi hoa loa kèn, đầu
nó giống như
đầu
dương vật ,thường được gọi là trái nước, bật nắp
hoa ra uống nước
trong đó và Thày Bảy giải thích thêm cho tôi biết xưa
kia Tổ Thầy
đi rừng dùng loại nước
từ hoa này để giải
khát và tăng thêm sức
lực, nó là kết tinh của sương
và chỉ nên dùng những bông hoa chưa bị
bật nắp,
cây có tác dụng giải độc
gan rất tốt . Như vậy
ta thấy rằng
: Với sự
linh thiêng của Tà Lơn, với
sự gian khổ của
cuộc đời,
với ý chí quyết tâm cao độ, các vị tu tập
tại Tà Lơn dễ
thành công hơn ở những
vùng khác.
Năm 1890, thực
dân Pháp truy lùng một
số người
Việt Nam ẩn cư
giữa rừng
sâu trên đỉnh núi. Khi đó,
họ phát hiện khí hậu vùng hoang sơ này rất
lý tưởng cho việc nghỉ
mát. Đến năm 1921, sau 9 tháng xây dựng, Pháp biến vùng rừng hoang thành một thị
trấn trên núi mang tên tiếng Anh là Bokor Hill gồm: Nhà thờ Thiên Chúa giáo, bưu điện,
bệnh viện,
khách sạn. Các pháp sư bị
nhà cầm quyền
cầm tù. Những cái am, những hang động tu luyện của
các pháp sư đều
bị bỏ
hoang phế. Một
số pháp sư chạy
sâu vào rừng tìm những hang động vắng
tiếp tục
tu luyện.
Đến
năm 1940, thất trận trước
quân đội Nhật
hoàng, thực dân Pháp co cụm về
Phnôm Pênh, bỏ hoang thị trấn
Bokor Hill. Sau năm 1945, khi Campuchia độc
lập, nhà vua Shihanuk (cha) đã cho
xây một cung điện nghỉ
dưỡng ở đây và tái sử dụng
các công trình của
Pháp. Nhưng đến
thời Kh'mer Đỏ diệt
chủng, toàn bộ thị
trấn nhỏ
này bị phá hoang tàn. Khi Campuchia được giải phóng khỏi nạn
diệt chủng
của Pôn Pốt, người
ta đã bỏ quên vùng núi hoang vắng này một thời
gian dài. Suốt thời gian đó, chỉ có các pháp sư và tín đồ
của họ
thỉnh thoảng đi lên núi theo những con đường mòn hiểm trở
để cúng bái và truyền phép thuật.
Bất
ngờ năm 2001, đạo diễn
Hollywood Matt Dillon nghe câu chuyện
về Bokor bởi một
đạo sĩ người Myanmar đã từng tu luyện nơi
đây. Năm 2002, Matt Dillon cùng đoàn phim của ông đến tận
Bokor thực hiện
bộ phim City of Ghost.
Bộ
phim nổi tiếng
đến nỗi,
từ năm 2003, dân Tây du lịch đến
Campuchia đều đòi đến thăm "thành phố ma". Rừng thẳm,
non cao của Bokor bị đánh thức.
Hiện
giờ, trên đỉnh Bokor, cung điện Hoàng gia đã được xây dựng lại
thành Bokor casino và một
cụm phức
hợp khách sạn casino Thansur Bokor Highland phục vụ
du khách ngoại quốc hoạt
động ngày đêm.
Các điểm
am, miếu tu luyện của
pháp sư thời
xa xưa trở
thành một quần
thể du lịch
tâm linh không thể
thiếu của
Bokor.
Tuy nhiên, theo thông lệ hàng năm, các pháp sư Đông Nam Á vẫn
tìm về Bokor đi sâu hơn vào rừng,
tìm những hang động hoang sơ để
thu nạp tinh - khí - thần của
vùng thánh địa. Khi chiến tranh giữa Việt
nam và Campuchia xảy
ra, bọn Ponpót lùng giết hại
người Việt trên toàn lãnh thổ, hai ông bà Bảy kéo nhau về Châu Thành – Tây Ninh sinh sống đến
ngày nay.
CẢNH TẠI CHÙA NĂM THUYỀN- BOKOR.

Điện
Minh Châu.

Điện
Bình Thiên.

Điện
Bàn ngự.

Điện
Tứ Giao.

Điện
Lan Thiên.

Chùa Năm Thuyền
Trong các thư
tịch, di ngôn, di tự của
Phật thầy
Tây An Đoàn Minh Huyên - Giáo chủ
đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương; Bổn Sư
Núi Tượng Ngô Tư Lợi
- Giáo chủ đạo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa; Phật Trùm, Phật sống
Cử Đa, Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Phật
sống Trúc Lâm Nương, Trịnh Công Hương v.v… cho thấy các vị này đều đạt
chánh quả, đắc
đạo ở
ngôi chùa Năm Thuyền
này.
Những
pháp sư nổi
tiếng trước
năm 1960 ở miền Nam như Thợ
Đức Lỗ
Ban; Ông Ba "bùa gồng";
tướng cướp Đơn Hùng Tín; Đông Cung Phan Xích Long và rất nhiều
vị đại
pháp sư khác cũng đã từng
sang khu vực Năm Thuyền luyện
phép.
Những
pháp sư nổi
tiếng trước
năm 1960 ở miền Nam như Thợ
Đức Lỗ
Ban; Ông Ba "bùa gồng";
tướng cướp Đơn Hùng Tín; Đông Cung Phan Xích Long và rất nhiều
vị đại
pháp sư khác cũng đã từng
sang khu vực Năm Thuyền luyện
phép.
Theo các tài liệu
của các Pháp sư Việt
thì đó là một ngôi am nhỏ do Vua Monivong xây cất vào năm 1924 cho Hoàng tử Pre Thoong đến tu luyện. Pre Thoong được một đại
pháp sư người
Việt có tên thường gọi là Ba Gang hướng dẫn vào đây luyện phép tiên. Do nơi đây có 5 tảng
đá hình chiếc thuyền nên được gọi là Năm Thuyền. Ông Ba Gang và Cử Đa là hai phó tướng của Quản
cơ Trần
Văn Thành - người chỉ huy cuộc khởi
nghĩa Láng Linh - Bảy
Thưa trong giai đoạn chống
thực dân Pháp (1867 -1868). Sau
khi kháng địa bị thất
thủ, Quản
cơ Trần
Văn Thành tử trận, Cử
Đa và Ba Gang về
núi Tà Lơn tu luyện phép thuật chờ
thời cơ.
Lần lượt
họ viên tịch tại
nơi này và được
dân địa phương
đúc tượng phong thánh.
Ngày nay, Năm Thuyền
không còn là ngôi chùa hoang vắng,
u tịch. Nhà đầu tư
đã xóa hầu hết
dấu tích người Việt và "cải biên" thành một khu du lịch tấp
nập người.
Họ đã biến tượng
Cử Đa và tượng Ba Gang thành
"Phật Kh'mer". Ông "lục cả"
trụ trì ngôi chùa là người Việt Nam cũng không còn.
Ngài Cử
Đa trước kia có để lại
trong cuốn “Giảng
Tà Lơn” của
mình là:
“LAN THIÊN một
kiểng
chép chơi.
Non cao đảnh thượng thảnh thơi vô
cùng:
Hiu hiu gió thổi đùng đùng,
Phất
phơ
liễu
yếu lạnh lùng tòng mai,
Mùa xuân tới kiểng lầu đài,
Tháng giêng mùng chín thi tài hùng anh,
Tứ
vi mây phủ
nhiễu
đoanh,
Bồng
lai một
cảnh hữu danh tư bề”.
Nơi
mọi người
tu tập là tại gần
Chùa Bình Thiên (nay đã bị
tàn phá chỉ còn lại dấu
tích cái mái). Nơi
đây có 2 con suối lớn
chảy cuồn
cuộn, tung bọt trắng
xóa , cùng với màn sương dày đặc
gần như
suốt năm.Gần đó là nơi Cổng
Bàng Ngự (hai cột đá có hình như cái trụ)
và Ruộng Năm Dây (những hòn đá màu đen to ước nặng hàng tấn ở
đây có hình như chiếc bánh xu, xếp thành năm hàng, khi Đức Thầy
– Đức Huỳnh Giáo Chủ đi ngang đây đã đặt cho nó cái tên là Đàn năm
dây). Băng theo đường
mòn trong rừng là đến Tứ
Giao Điện (nơi
ông Cả – Thân sinh của Đức
Huỳnh Giáo Chủ tu tập và NGỘ đạo)
.Tứ Giao Điện là một tảng
đá tự nhiên rất lớn
bằng phẳng
được chống bởi
các hòn đá tự nhiên khác tạo thành một cái động đá có 4 cửa ra vào. Cũng không xa là hồ sen bằng đá (nói là hồ chứ
thật ra là cả thiên bàn đá xanh đen hay xanh xám
hình lá sen to như
những chiếc bàn dài khoảng một
thước, rộng 4 hay 5 tấc đặt
trên ao – “sàn đá”).

Từ
xa xưa, Tà Lơn
trong mắt mọi
người là chốn rừng
thiêng nước độc, non cao hiểm trở
cùng sự ngự
trị của
muôn loài thú dữ,
là nơi trùng trùng nguy cơ
chỉ một
sơ sẩy
là coi như lành ít dữ nhiều.
Thế nhưng
với giới
Đạo sĩ, những cao nhân tu hành và những người
muốn khẳng
định tài năng, sức mạnh
thì vùng núi hiểm
này là nơi lý tưởng,
bởi nơi
đây được
cho là tập trung Linh khí đất trời,
hội đủ
yếu tố
thích hợp để
tu hành, rèn luyện
nâng cao công lực,
giác ngộ đắc
đạo.
Người
Việt vùng Đồng bằng
sông Cửu Long, đặc biệt
là vùng Thất Sơn tin rằng, ai đã tu luyện ở
Tà Lơn đều
là kỳ tài, có năng lực
phi thường, đẳng cắp
tối thượng,
từ những
danh y, vị chân tu đến pháp sư, đạo
sĩ. Nhiều tài liệu và truyền thuyết lưu
truyền trong dân gian cho rằng, từ
trăm năm trước nhiều người
Việt tu luyện tại
Tà Lơn, có người
mất trên núi được phong Thánh, lại không ít người hoàn thành tu luyện, thăng cấp Đại
sư về
sau khai Môn lập Đạo, trở
thành Giáo chủ của nhiều
Tôn giáo, Đạo giáo ở miền
Nam Việt Nam, được đông đảo tín đồ và người đời kính ngưỡng.
Theo đó, ảnh
hưởng tâm linh của Tà Lơn từ
hàng trăm năm trước
đã vượt ra khỏi lãnh thổ Campuchia, được đông đảo đồ
đệ các môn phái Huyền thuật
các nước trong khu vực tìm đến tu luyện, hoàn thành các thử thách để trở
thành Đại sư.
Tà Lơn cũng là nơi
nhiều môn phái lựa chọn
làm nơi khảo
nghiệm đệ
tử sau thời gian học tập,
rèn luyện ở
bản doanh.
Ngày nay một
số tín đồ của
Phật giáo Hòa Hảo ở
Tịnh Biên, An Giang mỗi năm đều dẫn
đoàn hành hương đến
Tà Lơn tu luyện, giao lưu với
các vị chân tu nơi này. Theo nhiều người
tu hành, trong thế
giới tu hành không có khoảng cách địa lý, không gian, mà mọi người
chỉ biết
hội tụ
về nơi
có oai linh để
tinh tấn tu hành. Không chỉ các vị tu hành người Việt Nam, mà các vị tu hành người Thái Lan,
Myanmar…cũng hay lui tới
đây.
Theo lời
một pháp sư, đường
lên đỉnh Tà Lơn hầu
như ai cũng biết,
nhưng đường
đến nơi
tu luyện của
các pháp sư chỉ có những người
thuộc đẳng
cấp nhất
định mới
có quyền biết.
Trên núi có quần thể hang động luyện phép thuật, ẩn
dưới những khối
đá xếp tầng
xếp lớp,
các hang động sâu hun hút,
vô số khối
đá hình thù kỳ dị
và hang, khe sâu tạo
nên những hệ
thống như
mê cung. Tùy vào năng lực và đẳng cấp
của từng
đạo sĩ, pháp sư mà phải
lựa chọn
nơi tu luyện thích hợp.
Có những
bãi hang động dành cho những pháp sư lần
đầu chân ướt chân ráo đến tu luyện. Tuy nhiên cũng có những hang động nằm
sâu dưới thung lũng, cạnh vực
thẳm sâu hun hút với vách núi dựng đứng,
nơi này chỉ
dành cho những pháp sư cao tay ấn luyện.
Những người
chưa đủ
trình độ năng lực muốn
vào những nơi
bí hiểm này phải có thầy đi kèm, nếu liều
lĩnh vào những nơi vượt
quá năng lực chịu đựng
thì lành ít dữ nhiều. Các vị tổ
từng lui tới nơi
này có tài hơn người,
oai lực hơn
người, từ thầy
thuốc trị
bệnh, vị
chân tu hay ông thầy
bùa, thầy ngải…khi
đã lên Tà Lơn tu luyện thì luôn được nể phục.
Trải qua hàng thế kỷ,
câu chuyện về
Tà Lơn vẫn
luôn là huyền bí với chôn dân gian.
Các pháp sư
hay về Tà Lơn
luyện phép mùa “Vặt Sa” (mùa tu hành giống như
mùa kiết hạ
đạo Phật),
cũng có giáo phái sau khi tu luyện
ở quê nhà thì hẹn mùa về Tà Lơn
để
vượt qua “Sát hạch” trước khi được chứng nhận
lên bậc “đại
sư”.
Ngoài ra, các thầy bùa, thầy ngải…khắp nơi
cũng hay lui tới thu nạp “thần
khí” cũng như cúng bái các vị tổ
sư để
nâng cao nghiệp Tổ.
Giới
huyền thuật Cao Miên
ở Lục sơn
(Hà Tiên đi qua) có tục lệ
mổi năm ngày lể tắm Phật của
họ thì họp nhau lại thử
tay nghề bùa ngải coi ai cao hơn ai ! Nười này năm nay có gì đặc sắc
hơn , người nọ luyện
được môn gì mới chăng ? v.v.....cách thức họ
thi tài không phải
là từng cá nhân với nhau mà do các vị Lục cả
cao niên trụ trì các chùa ,
các sóc địa phương đó đứng
ra tổ chức
giám sát . những vị này tài phép cao cường , ai cũng 4, 5 mươi năm trì kinh niệm chú , bùa phù , ngải nghệ
họ thuộc
về đại
cao thủ . các Đại sư
này đã làm phép tom trấn 1 số
các hang động từ trước
ngày thi trên lưng
chừng núi và dần lên đỉnh núi , càng lên dần trên núi thì bùa phép trấn ếm
càng mạnh dần
, mạnh dần
. Khởi đầu thi là bất kỳ ai ghi danh cũng được , không phân biệt chủng
tộc Xiêm , Miên ,Lèo
hay Hồi giáo , Việt nam v.v.....theo lệ (không phải luật)
chỉ cần
nói được tiếng Khơ-me là có thể
dự thi ! và dỉ nhiên tất cả
những kẻ
dự thi đều phải
biết mật
tông , bùa phép (đa số
là đang hành nghề
).Thoạt đầu
cứ 1 tóp 10 người (lấy theo số 10 vị
bo-rờ mây) mang theo cơm vắt
muối ớt
và nước đủ dùng cho 5, 7 ngày vô chung 1 hang
động , trong đó mọi người
có thể trao đổi tuyệt
kỷ cùng nhau hay người này dạy người
kia , hoặc cũng có thể vì ân oán lâu năm trước đây giờ gặp
nhau giải quyết
âm thầm , miển là không làm phiền tới
những người
xung quanh đồng cư đồng
cảnh !
Bởi trong động đã dược các Lục sư
cao tay yểm trấn nên người có bùa phép tại thân vào đó thường chỉ 1 vài tiếng là có phản ứng
ngay . Người
thì nóng mặt , nóng lổ tai Điển chạy
rần rần
, kẻ thì ớn
lạnh nổi
da gà dọc xương
sống lên tới ót , cũng có người xuất hạn
mồ hôi dầm dề
, như ngộp
thở v.v.....đủ các hiện tượng . Khi
đêm đến khoảng
giờ Tý thì càng khủng khiếp , có ông thấy mặt
chằng mặt
xanh nanh bạc bằng cái nia chần dần
trưóc
mặt mình , phà hơi lạnh
buốt , có thầy thấy
cục lửa
to như bánh xe bò từ
xa bay tới lao thẳng vào mình , những kẻ
trong động như
đã nói qua dỉ nhiên đã là dân trong nghề , người
nào ít nhất cũng 5, 3 năm
xuất sư
làm thầy rồi , đương nhiên họ trước
đó đã dụng pháp tom trấn , kiết giới
hộ thân . Ông thì dùng 4 cục đất
sên phép Pali Ngũ phương
chư Phật trấn
4 góc mình ngồi , có vị triệu
thỉnh Tứ đại Kim
cang giáng đan` hộ
thân , như mấy thầy Tàu Triều châu (sống bên Miên)chuyên về Mao sơn thuật
thì thỉnh lục
đinh , lục giáp thần , Mao sơn sư
chủ đáo tạ hộ
kỳ . tất cả
họp lại
tạo ra bầu không khí rất là huyền bí , ly kỳ và ngoạn mục
.
Mặc dù dã lập trận
kiết giới
vậy mà cứ độ
5, 3 tiếng hoặc
nửa ngày là có ông chịu không nổi ôm đầu bỏ
chạy ra khỏi hang (người đó kể như
thua đành chờ năm sau thi tiếp) , nhiều khi có thầy tay ôm ấn mà xỉu luôn trong hang . Tiếng thần
chú rì rầm của
nhiều ngưòi vang trong không gian hẹp nhỏ
thiêú ánh dương quang và dưởng khí càng thêm công
phạt vào tâm thức những
huyền thuật
gia đó .
Những
vị Lục sư Cao miên lập trận
trong các hang động
đó thuần tuý là mật giáo Nam tông , đôi khi có
chen vào vài đàn pháp theo Ấn
độ giáo thời vương
quốc Phù nam xa xưa ở
xứ Chua` tháp . công lực khổ
hạnh tu trì và căn cơ của
các vị Lục cả
đó cao thâm khó lường
, nên các vị thí sinh kia
sau vài ngày chưa
đến
1 tuần là hầu như
rớt đài hơn 2 phần 3 !
Sau đó những người còn trụ được
trong động đúng 10 ngày sẽ được
mời ra nghỉ bên ngoài 1 ngày , để rồi
lên phía trên triền
núi cao hơn , có động
khác cũng đã được phù phép trấn áp đặc biệt
" dử" hơn nữa
để thi tài cao hạ tiếp
tục , và cũng với con số 10 người vào 1 hang như vòng 1 vậy
. và thức ăn cũng chẳng có gì hơn ngoài cơm
và muối , ai chịu khó hơn thì cũng chỉ
chuẩn bị
thêm được
1 ống tre nước thốt nốt
giải khát mà thôi !
Xin nói vài điều về ý nghỉa cuộc
thi này : Đối
với số
người tu luyện bùa phép ở đất Miên
và dân chúng bổn đạo (Phật
giáo nguyên thuỷ
) địa phương
nơi đó rất
quan trọng và vinh dự nếu
đoạt được
danh hiệu đệ
nhất, ví như bên Trung hoa mà thi đậu
vỏ Trạng nguyên vậy ! Được tăng thống Cao miên cấp bằng
huyền thuật
đệ nhất
trong năm quý hơn
vàng bạc , thời đó chiến tranh nên phương tiện đi lại thường
bị quan binh xét hỏi rất
gắt gao . vậy mà kẻ nào có tấm chứng
chỉ ấy
trong tay đưa ra là các cơ quan công quyền Cambodia ok liền , còn hơn là sự
vụ lịnh
khẩn cấp
nữa ! vì ở Cao miên đạo Phật là Quốc giáo nên chử ký của Tăng
thống (Vua sãi) rất có giá trị , Quốc vương Shihanuk khi gặp ngài mà còn phải quì mọp đảnh
lể như
tế sao vậy .
Theo lời kể
của ông Bảy Thới
ở Tịnh
Biên, hai đệ tử của
Đức cố
Quản (Quản
cơ Trần
Văn Thành) là Ba Gang và Cử
Đa, khi khởi nghĩa Láng
Linh – Bảy Thưa
chống Pháp thất bại,
Quản cơ
tử trận
thì hai ông về Tà Lơn, ở
chùa Năm Thuyền tu luyện chờ
thời cơ,
dân làng ở chân núi tôn hai ông là pháp sư đắc
đạo, họ
gởi con lên núi, trong đó có nhà vua
Monivong gởi hoàng tử Pre Thoong cho hai ông tiếp dẫn
đạo tu hành. Tượng của hai ông vẫn được
vị lục
cả người
Việt thờ
cúng từ lâu ở
chùa này nhưng tiếc rằng,
vị lục
cả không còn, tượng hai ông được biến hóa theo kiểu Khmer.
Thày Bảy
về văn hóa chắc chỉ
khoảng lớp
3,lớp 4 vì tôi nhìn chữ ông viết trông như gà bới.
Tôi hay đùa ông bữa
nào thiếu gà cứ bảo
ông viết ra mấy chữ
là ăn gà mệt nghỉ. Tuy nhiên ông lại rất
rành các loại chữ bùa, từ chữ
bùa Pàli đến chữ bùa Phạn, bùa Lèo, bùa Năm Ông, bùa Lục Sơn
(chữ Kh'mer cổ)… Ông đã từng hội
ngộ với
rất nhiều
đại pháp sư khu vực Đông Nam Á tại đỉnh
núi Tà Lơn. Những
lần hội
ngộ như
vậy, ông và các đại pháp sư khác quốc
tịch, dị
biệt ngôn ngữ phải
nói chuyện với
nhau bằng "tiếng bùa" và "bắt ấn
quyết" (tức ra dấu).Trình độ văn hóa của ông Bảy là con số không nhưng trình độ
về bùa, chú, ngải thì thuộc đẳng
cấp "đại sư".
Ông Bảy khẳng
định, ai cũng biết đường
lên đỉnh Tà Lơn nhưng
đường
đến nơi
tu luyện của
các pháp sư thì chỉ có giới pháp sư thuộc
đẳng cấp
trung sư mới
có quyền biết.
Đó là những địa
điểm bí ẩn
chưa có trên bản
đồ. Ngoài dấu tích chùa Năm Thuyền, tại
đỉnh Bokor còn rất nhiều
địa chỉ
mang tên thuần Việt như
điện Minh Châu, điện Bình Thiên, điện Bàn Ngự, điện
Tứ Giao… Đó là dấu tích của những
người Việt xưa
tu luyện phép thuật nơi
này. Ngày nay, những cái tên đó đều được
người bản địa
"Kh'mer hóa" thành Mik Clau (Minh Châu), Bin Thi (Bình Thiên).
Cho đến
tận bây giờ, người
Kh'mer vẫn tin rằng, những "lục tà" người Việt có công khai mở thánh địa phép thuật vẫn
còn "trụ trì trong không
gian". Còn các pháp sư
khu vực Đông Nam Á vẫn chọn
nơi đây làm "trường
thi tốt nghiệp" hàng năm.
Đối
với giới
pháp sư, ngoài chuyện
Tà Lơn là nơi
có dấu tích những bậc
Phật, thánh đạt chánh quả, còn có yếu tố
"chính huyệt"
của khu vực Đông Nam Á. Họ cho rằng, nơi
đây là điểm tập
trung linh khí trời
đất nên con người dễ hấp
thu đầy đủ
tinh, khí, thần của vũ trụ. Vì những yếu
tố đó, các sư phụ
luôn đưa đệ
tử lên đây để kiểm
tra khả năng tu luyện. Nếu
vượt qua được kỳ vặt sa, kể như
đạt
cấp đại
sư, đủ
trình độ làm thầy. Với
những người
đạt bậc
đại sư
cũng đến
đây để tôi luyện một
món "đồ" (Bảo bối
có ẩn chứa
phép thuật) hoặc
nâng cấp một
tuyệt kỹ
phép thuật nào đó.
Thông thường,
những người
dự hội
mời một
vị cao tăng Campuchia (nước chủ nhà) đứng ra chủ trì "trường thi". Trước khi vào hội, các pháp sư tự
chọn và đánh dấu một
cái hang rồi mời vị
cao tăng chủ trì đi từng hàng làm phép trấn ếm.
Sau khi trấn ếm xong các hang, vị cao tăng này phối hợp
cùng các sư phụ cộng
lực, đồng
loạt bày trận địa
phù phép, "giăng lưới"
khắp bầu
trời để
truy tìm những ác quỷ, yêu tinh ẩn nấp,
"trói" lại
nhốt chung vào một cái chum sành có nắp. Vị
chủ trì sẽ đem cái chum đó về chùa của mình làm "chiến lợi
phẩm". Đám ác quỷ, yêu tinh sẽ được
vị cao tăng đó trì chú đến khi thuần phục
mới được
thả ra làm ôsin "phần âm" cho chùa.
Khi đã trấn
ếm an toàn, các sư phụ
lùa đệ tử
vào từng hang bắt đầu
tu luyện. Mỗi
đệ tử
chỉ được
phép mang theo 1 lít nước
và một số
củ ngải
làm thực phẩm.
Trong thời gian 45 ngày, nếu bước
ra khỏi động,
xem như bỏ
cuộc thi và bị đánh rớt. Người
nào vượt qua được, xem như "tốt nghiệp". Người nào hóa điên được cao tăng chủ trì rước về chùa nuôi suốt đời
để trục
vong. Họ cho rằng, người yếu tay ấn sẽ
bị ác quỷ, yêu tinh nhập vào người khiến điên loạn. Người
nào chết luôn trong động, xem như đã đạt
cực đỉnh
thông tuệ. Cả
hội xúm lại trì chú tôn người chết làm thánh, thần.
Kết
thúc hội Vặt
sa, người nào "tốt nghiệp" sẽ được
cao tăng chủ trì trao một "ấn vật"
và một giấy
chứng nhận
có con dấu của
Tổng hội
Phật giáo Vương quốc Campuchia. Với giấy
chứng nhận
đó, pháp sư sẽ trở
thành thượng khách của bất
kỳ ngôi chùa nào trên đất
Thái Lan, Myanmar, Campuchia,… trừ
Việt Nam và Lào.
Trên núi Tà Lơn
có 36 ngôi mộ nằm
thành 3 cụm riêng biệt nhưng
gần nhau. Cụm trong cùng nằm lưng
chừng thung lũng có 4 ngôi mộ nằm
thành 2 lớp. Lớp trong, sát vách đá có 1 ngôi mộ, phía ngoài là 3 ngôi mộ. Cách đó không xa là một cửa
động, trên vách đá có chạm một
hàng chữ Hán "Động Kim Quang".
Tất
cả các ngôi mộ đều
phủ những
phiến đá đánh dấu. Có một ngôi mộ chất
đá rất sơ
sài không bia mộ. Ông Bảy cho biết, vào khoảng năm 1970, những người
luyện phép đến đây đã phát hiện một
bộ xương
khô vẫn còn ngồi trong tư thế
thiền. Họ
để nguyên tư thế
của người
chết rồi
phủ đá lên.
Trong số
36 ngôi mộ chỉ có một
vài ngôi được dựng bia khắc chữ.
Số còn lại, chết
trong các hang đá, không danh tính nên những
người đến sau chôn cất phủ
đá đánh dấu.
Ở một số
hang đá dưới sâu tận cùng đáy vực vẫn
còn chứa một
số xương
cốt người
tu luyện chết
rũ không được chôn cất, không được nhang khói. Vậy mới
biết các Thày lên Tà Lơn kiếm
được giấy tốt
nghiệp Vặt
Sa để khẳng
định đẳng
cấp của
mình thật khó hơn lên Trời.
Ta cũng thử
tìm hiểu một
chút về Phong thủy của
dãy Tà Lơn – Bokor này .
KHÁI QUÁT MỘT ĐÔI ĐIỀU VỀ ĐỊA MẠCH.
Theo sử
sách còn truyền lại,từ
khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật
-Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả
các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều
sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận
hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật
tự nhất
định.
ĐỊA ĐẠO
:Thủy -Hỏa-Phong
châu lưu khắp
nơi nhằm
sinh hóa và nuôi dưỡng
vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn
của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới
minh.Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng
,nghỉ tức
là hoại ,là diệt.
Một Cảnh
giới hài hòa tạo được
sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người
tức là cả ba thành phần phải
tốt tương
ứng thể
hiện đủ
đức tính của Đại
đạo.Vì thế ,các bậc Tiền
nhân luôn có ước muốn tạo
cho mình và cộng đồng một
Cảnh giới
Chân -Thiện -Mỹ,họ
chiêm nghiệm ,học hỏi
từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng
Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân
sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy
Trong thuật
Phong thủy,Khí là một hiện
tượng rất khó giải thích ,nhưng nó là một
khái niệm cơ
bản của
thuật Phong thủy.Nhận
định đúng về khí là chỉa khóa mở vào lý thuyết cốt
yếu của
Phong thủy.Theo quan niệm Á đông,Khí ẩn tàng làm động lực
cho Trời đất
vạn vật.Khí
không những hội
tụ trong các vật thể
hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể
tan rã để tạo
thành những thể
rất Linh thiêng gọi là Linh của Vũ trụ.Người
xưa có câu :Tụ
là hình tán là Khí .Ngày nay Khoa học
phát hiện được
một vài dạng của
Khí,gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo,đếm
được.Theo định nghĩa của môn Phong thủy Long mạch xuất
phát từ những
dặng núi cao.Núi mà từ đó khởi nguồn
Long mạch gọi
là Tổ sơn.Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những
khu vực khác gọi là Thiếu sơn.Ta
cũng biết rằng
Thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống ,các đỉnh núi cao là những Antena tiếp thu sinh khí.Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU
:"Phong thủy
Ðịa lấy
Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem
Phong thủy chính là quan sát sự thuận
ứng nghịch phản
của Sơn
và Thủy,Khí cứng rắn
nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly,hội hợp
của tụ
và tán. Phong thủy
tốt là mạch địa
thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa
mạch hoạt
bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng,
đứt đoạn
rồi lại
nối liền.Ðịa mạch
xuất hiện
ở giữa,xung
quanh có Sa trướng trùng
trùng.Sa trướng của nó có gần có xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi
hiệp cốc
xuất hiện
,chúng đều thu giữ Ðịa
Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc
) vậy,có nơi tạo
ra thế cử
đỉnh,có chỗ tạo
ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của
Ðịa mạch
không bị đứt
đoạn,khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc
,thì Ðịa mạch
lại tựa
như hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh
và hai bên của Ðịa mạch
sáng sủa lại
cùng tương ứng với
Tinh thần,tựa
hồ như
sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi
này.Triều sơn
ở xa thì đẹp đẽ,muôn
hình vạn trạng.Minh
đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu
giao kết ,uốn
lượn xung quanh,bốn phương
tám hướng không có nơi nào bị
khuyết hãm.Ðịa Huyệt
hạ lạc
kết Huyệt
ở nơi
này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ
cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế
tròn và nhọn cùng đối ứng
với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao
quanh nơi này;Sơn
trong Sơn ngoài cùng tụ
hội.Nơi
được
như vậy
được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy.
Kinh Thư có viết
:"Tinh tú trên Trời
và Địa thế
dưới đất luôn tương hỗ với
nhau,Phong thủy Bảo địa
tự nhiên sẽ thành...Dương đức
sẽ hình thành từ thân thể của
ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị
trí ăn ở cư
xử thiện
hạnh của
ta ".
A/LONG MẠCH TỔ :Trong hình phía
trên là một tổ Rồng
(Long mạch ).Long mạch lớn
nhất có hình được tô mầu chính là Tổ Long - Dãy Hymalaya (Còn gọi là Hy Mã Lạp sơn
).Dãy Hymalaya tạo nên một vòng cung dài trên 2400 Km qua
các nước :Pakistan,Kashmir,Ấn độ,Tây
tạng,Nepal,Sickim,Bhutan bao bọc một
vùng rộng gần
600.000 Km vuông.Đây chính là Tổ
Sơn của
cả Thế
giới.Nước
Việt nam ta chỉ nằm
ở phía đuôi con Rồng này.
Từ
đỉnh Everest trên dãy Hymalaya cao
8.880 m so với mặt biển,
có đường kinh mạch linh thiêng trông giống hình con Rồng lớn,
đi từ nóc nhà thế giới
là cao nguyên Tây Tạng
dọc theo biên giới Ấn
Độ, xéo qua cao nguyên Vân Nam, đến đỉnh
Panxipang cao 3.143 m của
dãy Hoàng Liên Sơn
tỉnh Lao Cai, rồi toả
ra trên Đồng bằng Bắc
Bộ nước
ta và chui xuống biển sâu ở Vịnh
Hạ Long, cuối cùng đường kinh mạch kết
thúc ở Vịnh
Mindanao - Philippines ở
đáy Đại dương
sâu 10.800 m. Đây
là “con Rồng” lớn
nhất thế
giới. Những
nhà nghiên cứu phong thuỷ đã phát hiện ra đường kinh mạch này và cho rằng, đây là đường kinh mạch quan trọng quyết định
vận mệnh
của quốc
gia Việt Nam.
Theo ĐOÀN VĂN THÔNG chép lại theo cuốn HUYỀN
DIỆU THIÊN THƯ của
một dị
nhân ẩn danh vùng Thất sơn.
"Khoa Địa
lý dạy
rằng :Hễ một dòng sông bắt nguồn từ nơi đất địa hiển linh,núi cao ngàn năm
không người
tới ở,rừng rậm ngàn năm không ai tới lui,phóng lượn sóng nghêng ngang
ngàn thu không cạn,thì
con sông ấy
sẽ kết tụ nơi Huyệt "Long đảnh ",một địa linh rất Linh hiển,phì nhiêu về vật chất,cao siêu bội phần về tinh thần.Ngọn CỬU LONG giang là một dòng Bảo giang oanh liệt,oai nghiêm,vừa tạo thành nên vóc vạc hoàn toàn lối 100 năm nay.Liên kết với các núi,Cửu long giang xuất hiện ra 12 HUYỆT huyền diệu,chấm đậm néthùng vĩ trên quả Địa cầu này.
"Bắt
đầu khởi kết tụ ngươn khí
âm
dương xây
nên
Địa Huyệt thứ nhất tại THẤT SƠN (Châu
đốc ).Chỗ ấy ba Huyệt Tiên thiên hiệp lại làm Nê hườn cung ,xuất hiện đúng ngày linh hiển TAM HUÊ TỤ ĐẢNH mùi hương lạ kỳ- bí mật bay ra từ núi Sam đến núi Tượng.Chỗ ấy là cân não,cốt tủy của Cửu long.Tên nó được hưởng ứng theo luồng điện Thiên nhiên,oai
nghiêm,từ
bi,hùng vĩ,đời
sau gọi
là KIM THÀNH HUYỆT.Đó
là Huyệt
dương đã
xuất
hiện
,Cửu
long kết
lần với hai dãy núi âm phong
cô độc
,liên hiệp
thành cặp
mắt HÀ TIÊN và PHÚ QUỐC là THỦY TRUNG HUYỆT.TÂY NINH ,núi ĐIỆN BÀ là HUỲNH MÔN HUYỆT,hai đảnh núi ấy thuộc về Âm kết tụ ngươn khí
tại Trung ương tạo nên ẤN ĐƯỜNG HUYỆT (Dương )để khai mở luồng điển quang cho các Huyệt kia vừa ngưng tại lối miệt Long xuyên,Bình mỹ (Một dãy cù lao lớn chạy dài từ Bình mỹ xuống gần đến Cần thơ ).
Từ Kim thành Huyệt phóng thẳng xuống mũi Cà mau và núi KỲ
VÂN ,hai Huyệt
dương nữa ,một bên thì thành sống mũi Cửu long chấm đến Cà mau (Tức là LÂM HUYỀN HUYỆT ),một bên thì Hàm Rồng tại KỲ VÂN (Tức BÍCH NGỌC HUYỆT ).Đồng cân với hai Huyệt âm(THỦY TRUNG HUYỆT VÀ HUỲNH MÔN HUYỆT ),hiện ra một Huyệt thứ sáu (BÌNH NAM HUYỆT ),tại núi Côn nôn là chót lưỡi của Cửu long.
Sáu Huyệt
âm dương
vừa kết tụ ,thì tại Trung ương Huyệt,yết hầu Cửu long ,vừa khai mở gần Cần thơ bây
giờ
,gọi
là TRUNG ƯƠNG
CỬU LONG HUYỆT.Lần lần ba cửa mở ra :cửa Đại,Tiểu...v v vừa thành tựu(Năm Nhâm Thìn 1892
),khiến
cho ba nguồn
Thủy
dựng tại Bình Nam châu chuyển động (Lưỡi Cửu long ),làm cho các miền ở chánh cửa khẩu phải bị nạn lụt(Vàm cỏ,Gò công,Bến tre và các cù lao nhỏ...) ba ngày ba đêm.Đó
là bảy
Huyệt
LINH THIÊNG ,CHÁNH GỐC
của xứ VIỆT NAM mới ngưng kết được lối 100 năm nay.Đứng giữa Hoàn cầu,sự Linh thiêng tân tạo là đầu Cửu long giang,một nguồn Bảo giang Thiên cơ đã
định phải chói rạng sự Huyền diệu,nhứt hạng khắp bốn bể,năm Châu.Vì Địa linh ấy mới sanh Nhơn kiệt,các vị Thánh tổ kim thời hễ thuộc mạng âm thì phải xuất hiện (Chứ không phải Giáng sanh ),dạy đời trong ba Huyệt âm (THỦY TRUNG HUYỆT,HUỲNH MÔN HUYỆT và BÌNH NAM HUYỆT ).,còn thuộc Dương thì
phải
xuất
hiện
ở Thất sơn,KỲ VÂN và CÀ MAU (KIM
THÀNH HUYỆT,BÍCH
NGỌC
HUYỆT
và LÂM HUYỀN
HUYỆT
).
(Dật
sĩ và NGUYỄN
VĂN HẦU
-THẤT
SƠN MẦU NHIỆM ).
B/ LONG MẠCH CỦA TÀ LƠN :
Ta đã nhận
biết khá rõ long mạch Tổ
chạy từ
Dãy Hymalaya (Còn gọi
là Hy Mã Lạp sơn ),kết
phát nên những địa huyệt
tại miền
Bắc cũng như tại
miền Nam Việt nam. Tuy nhiên, Long mạch kết
tụ tại
Tà Lơn ( Bokor) lại là một nhánh khác của Long mạch Tổ,
không cùng đường dẫn Long của Việt
Nam. Dãy Hymalaya (Còn gọi
là Hy Mã Lạp sơn ).Dãy Hymalaya tạo nên một vòng cung dài trên 2400 Km qua
các nước : Pakistan,Kashmir,Ấn độ,Tây
tạng,Nepal,Sickim,Bhutan bao bọc một
vùng rộng gần
600.000 Km vuông.Đây chính là Tổ
Sơn của
cả Thế
giới. Vùng địa huyệt
Tà Lơn ( Bokor) chính là được
kết tụ
bởi vòng cung dài trên 2400 Km qua
các nước : Pakistan,Kashmir,Ấn độ,Nepal,Sickim,Bhutan
, Cam Pu Chia và kéo xuống
vùng biển Thái Lan .
C/ ĐỊA THẾ TÀ LƠN ( BOKOR).
Núi Tà Lơn
( người Miên gọi là Bokor - tức là con bò ) cách Thị xã Kompot khoảng 10 Km về hướng
Tây Nam. Đỉnh cao nhất của
Núi Tà Lơn là 1.079m, vào mùa mưa
đầy
sương mù, cách 5m không nhìn thấy gì. Từ đàng xa chúng ta nhìn thấy núi Bokor giống như
hình thể một
con voi, chót núi luôn luôn bị
mây bao phủ trắng xóa. Núi Bokor được ghép lại bởi
ba trái núi, nên đường
từ dưới
lên đỉnh núi rất xa vì xe phải chạy
quanh từ núi này sang núi nọ, hết
cả ba núi mới đến
nơi.
Từ
Thị xã Kompot có hai con đường đi vòng quanh dãy Tà
Lơn : Một
rẽ bên phải là đường vào hồ Bokor và lên Chùa 500 vị Phật.
Sau đó đi lên Trung Toà, Hàm Long, Cán Dù...
Đường
thứ hai đi theo hướng về Công Pông Chàm, Công Pông Thơm đi khoảng
5 Km rẽ phải
vào Núi Năm Thuyền
có Chùa Năm Thuyền.
Tại đây có pháo đài Bokor, là bộ sưu
tập các tòa lâu đài (gồm khách sạn, casino, nhà thờ, cung điện…) được
người Pháp xây dựng từ
năm 1920.Nơi này , chính phủ Căm Phu chia đang cho xây dựng lại
Casino rất lớn
.Từ Chùa Năm Thuyền đi tiếp theo đường núi hiểm trở
khoảng 32 Km ta có thể đến
được khu vực đáng chú ý nhất của
dãy núi Tà Lơn - Điện Minh Châu , Điện Bình Thiên, Điện Bàn Ngự, Điện
Tứ Giao, Điện Lan Thiên...là nơi các vị
Tổ của
Huyền Môn , các vị lãnh đạo Đạo
giáo ngày trước chọn làm nơi tu luyện.
Trong " Sấm
giảng đời
người "của Sư
Vãi bán khoai có viết :
" Ngày xưa Phật ở nước Tần,
Rồi
sau Phật
lại đi lần về Nam. "
Câu đó có ý nghĩa về
sự chuyển
dịch trung tâm Phật giáo từ Tây Tạng sẽ
dần chuyển về
nước Việt, đồng
thời cũng chỉ rõ co ta biết sự
chuyển động
và kết tụ
của Hymãlạp sơn
như thế
nào?
Về
kết cấu
Địa chất,
khu vực Tà Lơn hàng triệu
năm trước còn là biển. Qua những kiến
tạo địa
chất, được
dựng lên thành núi cao đến 1079 m. Bằng chứng
thấy rõ ràng nhất là bất cứ
ai bước chân đến Tà Lơn đều
thấy cát ở đây là cát biển trinh nguyên.
C/ DẤU VẾT CỦA CÁC ÔNG ĐẠO TẠI TÀ LƠN( BOKOR ) TRONG LỊCH SỬ.
1/ Huỳnh Giáo Chủ :
Mùa Thu năm 1939, sau khi hướng dẫn thân phụ đi viếng các am động miền
Thất Sơn
(phiá Tây Nam-Việt) đặc
biệt là núi Tà-Lơn (Bokor) nằm trên địa phận
tỉnh Cần-Giọt ( Kampot ) thuộc đất
Cao-Miên, giáp giới
Hà Tiên, Ngài hốt
nhiên tỏ ra đại
ngộ. Và ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (nhằm ngày 4 tháng 7 năm 1939 dl.),
Ngài chánh thức khai sáng đạo Phật
Giáo Hòa Hảo, một nền
Đạo dân tộc đã tạo ra những thay đổi lớn
lao trong xã hội miền Nam và đóng một vai trò vô cùng quan trọng không những trong sinh hoạt tín ngưỡng mà còn trong lịch sử
đấu tranh của Dân tộc. Đúng như lời
Ngài viết trong bài “Thay Lời Tựa”
(tức Sứ
mạng của
Đức Thầy):
“Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ
Mão vì thời cơ đã đến,
lý Thiên Đình hoạch
định…” hoặc “ Ta hóa hiện ra đời cứu
độ chúng sanh…Ta chuyển kiếp
đã từ lâu chờ đến
ngày ra trợ thế”. Vì vậy, việc
giáng sanh của Ngài không phải do ngẫu nhiên mà là do sự sắp
xếp từ
nơi Thiên đình thượng
giới, như
lời Ngài tiết lộ
:
“ Ta thừa
vưng sắc lịnh Thế Tôn.
Khắp
Hạ giái truyền khai Đạo pháp”.
(Diệu
pháp Quang minh - tr.28).
Đăng sơn
kỳ nhứt. - Lần đầu
tiên nầy Đức
Thầy đi núi Tà-Lơn với
Đức Ông để cho Đức Ông đảnh lễ
chư-vị
Phật, Tiên và cảm thấy
sự linh-thiêng huyền-diệu
của chư-sơn liệt
vị, và cũng để cho Đức Ông hoàn-toàn tin-tưởng rằng: Đức
Thầy là một bực
siêu-nhân chớ không phải thượng
xác cỡi đồng
như trước
kia đã tưởng…
Núi Tà-Lơn
(Bokor) nằm trên địa-phận
tỉnh Cần-Giọt (Kampot) thuộc xứ
Cao-Miên, giáp giới
Hà-Tiên. Từ trước đến giờ
Đức Thầy
chưa hề
có dịp bước
chơn đến
vùng nầy. Thế
mà khi còn ở tại nhà, Đức Thầy
đã kể cho Đức Ông nghe cuộc hành-trình phải từ
đâu đến đâu. Đức Thầy
cũng biết từ
chặng nào tới chặng
nào phải trả
bao nhiêu tiền xe hơi hay xe ngựa.
Đăng sơn
kỳ thứ tư
- Lần ầy
Đức Thầy
đi núi Tà-Lơn và dẫn theo có một mình ông Ngô-thành-Bá tức Biện
Đài ở Hòa-Hảo .
Khởi
hành ngày mùng 6 tháng giêng năm Canh-Thìn (1940), hai Thầy trò được chở đưa
bằng xe đạp đến
vàm Cái-Đầm. Sau khi đò cập bến
nhà
chơn
núi hồi 8 giờ, hai Thầy trò xuống suối
tắm rửa,
thay đổi quần
áo, mỗi người
mặc một
bộ đồ
dà.
Tiến
theo con đường « cam chại » (đường đi non) Thầy trò tới Trung-Tòa (hay là Long-Thuyền) lúc 1 giờ trưa,
ghé vào một ngôi chùa nhỏ và tặng
mấy nhà sư trong chùa 3 cuốn giảng
của Đức
Thầy (quyển thứ
nhứt, thứ
nhì và thứ ba) rồi từ-giã
ra đi.
Đến
ngả tẽ,
Đức Thầy
bảo đi qua diện Cô Nhứt (gần
hơn một
phần ba đường lên điện Minh-Châu). Đường đi dốc ngược,
gập-ghềnh
bước tới muốn
sụt lui, nên 3 giờ chiều
mới đến
điện Cô-Nhứt. Lối
5 giờ chiều,
Thầy trò đi ngang qua lộ lớn
(bề ngang trên 4 thước) rồi đi lần tới
điện Cao-Vân. Đêm đó đoàn lữ-hành nghỉ trên một tảng
đá cao khỏi đầu, rộng
bằng 2 bộ ván ngựa, mặt
bằng phẳng.
Sáng ngày mùng 9, Thầy
trò đi lên « Ruộng
Năm dây ». Tại đây có đường mòn đi qua Bà-Ngự, nơi
ông Cử đắc
Đạo.
Rồi
Thầy trò đi lần lên tới « Châu-Thiên », một cảnh
thiên-nhiên tuyệt
đẹp nhờ
tòng bá lộn chen không cao
không thấp. Khi còn cách « Tứ Giao điện » lối
100 thước, mặt trời
vừa chen lặn. Đức
Thầy dừng
chơn bảo
đừng nói chuyện. Chẳng
có một bóng người ! Chỉ có chén bát, tương chao và những chiếc đủa
nằm bừa-bãi
trên bàn.
Sẳn
có nồi nước
tại đó và vì đói quá, ông Đài hốt cơm
khô đeo theo bỏ vào nồi đun lửa nấu.
Theo lời ông Đài thì bữa cơm
ấy ông ta ăn ngon nhứt trong đời mặc
dù thực-đơn
chỉ gồm
có một dĩa đọt khoai lang luộc.
Đêm ấy,
Đức Thầy
lên nóc điện thắp nhang đèn cầu nguyện, cúng lạy. Ngài nói với ông Đài: « Thầy đây chỉ lạy
Phật-Tổ
thôi kỳ dư các bực khác Thầy được
miễn ».
2/ Ông Cử Đa.
Năm 1873, sau khi nắm
rõ tình hình nghĩa quân, Trần
Bá Lộc dẫn
quân Pháp đánh vào Bảy
Thưa. Ông Trần
Văn Thành tử trận. Cuộc
khởi nghĩa thất bại.
Quân Pháp tàn sát, giết
hại, đốt
làng của tín đồ Tứ
Ân Hiếu Nghĩa. Ông Ngô Lợi thoát nạn, sau này quay trở về
Láng Linh tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân dưới danh nghĩa tôn giáo
chờ thời
cơ. Khi quân Pháp càn quét vào vùng căn cứ, một
trong những đệ
tử của
Bổn sư
Ngô Lợi đã dùng một chiếc
ghe nhiều mái chèo theo sông Cái ra biển đào thoát về tận
vùng núi Long Sơn
ở Bà Rịa
lập nên đạo Ông Trần.Riêng ông Cử Đa cải
trang thành một vị sư
lấy tên là Sư Bảy,
giả điên khùng, lưu lạc
nhiều nơi
để
tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phái lánh
sang Campot,Campongtrach, đến
núi Tà Lơn tức
Bokor (Campuchia).
Đến
năm 1896, ông Cử
Đa mới dám trở về
vùng núi Cấm lập am ẩn
danh. Năm 1896, khi rời
Campuchia về nước, ông Cử Đa tìm gặp Đức
Bổn sư
Ngô Lợi để
bàn chuyện tiếp
tục đánh Pháp. Nhưng vị
tu sỹ này từ chối
do chưa đến
thời cơ.
Thất chí Cử Đa về
vùng rừng Tri Tôn lập chùa Năm Căn qui ẩn.
...Riêng ông Cử
Đa cải trang thành một vị
sư lấy
tên là Sư Bảy,
giả điên khùng, lưu lạc
nhiều nơi
để
tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phải lánh sang Campot, Campongtrach, đến núi Tà Lơn tức
Bokor (Campuchia). Đến
năm 1896, ông Cử
Đa mới trở
về vùng núi Cấm lập
am ẩn danh.
Mặc
dù thất vọng,
Cử Đa vẫn
tụ tập
lực lượng
kéo đánh đồn Cây Mít của Pháp ở mé kênh Vĩnh Tế. Binh ô hợp, vũ khí thô sơ nên thất
bại. Buồn
bã, ông không về
núi Tượng, cũng không trở lại
núi Cấm mà đi thẳng lên núi Tà Lơn, trên đất
Cao Miên.
....Tục
truyền, Tết
năm Giáp Tuất (1934), nhà
văn Phan Khôi đã kỳ ngộ
với Cử
Đa ở chợ
Bến Thành (Sài Gòn). Cử Đa bấy
giờ đã đắc
đạo thành tiên, và trong các cuộc cầu
cơ, ông thường
giáng đàn cho thơ
với đạo
hiệu ''Hư
Không...''
Cử
Đa truyền cho đời bài ''Vãn núi Tà Lơn'' và tập
''Lan Thiên'', đều
viết bằng
thơ lục
bát.
3/ NGÔ VĂN CHIÊU
Trung tuần
tháng 6-1928 (cuối
tháng 4 Mậu Thìn), Ngô tiền bối
xin nghỉ việc
sáu tháng để đi du lịch Cam Bốt (thăm núi Tà Lơn,[12] Đế
Thiên Đế Thích…) theo lịnh của
Đức Cao Đài. Lúc này số môn đệ Chiếu
Minh tháp tùng theo tiền
bối có khoảng ba mươi người. Khởi hành ngày thứ Tư
13-6-1928.
Thứ
Tư 30-3-1932 (24-02 Nhâm Thân), Ngô tiền bối
đi thăm núi Tà Lơn
lần thứ
nhì. Người tỏ ý sẽ
thoát xác nơi đây. Các môn đệ
đi theo hết sức khẩn
khoản, tiền
bối mới
bằng lòng trở về
Cần Thơ.
Xin theo dõi tiếp
BÀI 32, dienbatn.
_______________
Nguồn:
sưu
tầm







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét