Ẩm thực Nhật (phần 1): Kombu bột ngọt và cá khô đập bể đầu
Pha Lê
Hồi còn là sinh viên, tôi và bạn Mập
thích nấu ăn nên lúc tạt vào hiệu sách thường ghé khu ẩm thực
mày mò thêm. Có hôm tôi với
Mập vớ
phải một
quyển về
ẩm thực
Nhật, cả
hiệu sách to 4 tầng có mỗi một
cuốn ấy,
dày như từ
điển mà chẳng có chút công thức nào, chủ yếu
viết về
lịch sử
các món ăn, cách sống,
cách ăn uống, mùa màng,
và… triết lý Nhật. Tôi rất quý cuốn sách, nhưng thời
đi học ở
xứ người
lại đổi
chỗ trọ
liên tục nên thất lạc
mất, giờ
tìm lại chẳng
thấy mà tôi cũng không nhớ tên cuốn đó là gì.
Nhưng cuốn
sách đó đã khiến tôi bắt đầu
hứng thú với ẩm
thực xứ
anh đào – nơi mà ngay cả người
dân của nó cũng công nhận là nghèo tài nguyên, trồng trọt
chăn nuôi khó khăn. Nền
tảng của
món Nhật gần
như gói gọn
trong mấy nguyên liệu sau đây: tảo bẹ
kombu, cá khô katsuobushi, rượu sake, rượu
mirin, và các chế
phẩm từ
đậu tương
như nước
tương với miso. Tức nhìn qua nhìn lại thấy
rất ít, tuy nhiên người Nhật đã kỳ công chế biến
để tạo
ra lắm món ăn phong phú từ các nguyên liệu này, đẩy Nhật
thành nơi có nhiều
nhà hàng Michelin nhất thế
giới và nơi có các món ăn nổi
tiếng thanh tao nhẹ nhàng.
Món ăn tại nhà hàng Kichisen –
chuyên ẩm
thực Kaiseki – ở Kyoto, Nhật Bản. Nhìn cái mâm nho nhã
ghê, chả
trách sao Kichisen nhận
tới ba sao Michelin.
Do
ẩm thực
hiện đại
của thế
giới chịu
nhiều tác động từ
ẩm thực
Nhật, ví dụ như
các đầu
bếp phương
Tây nổi tiếng
hiện nay cũng nói rằng họ
học lắm
cái hay từ ẩm thực
Nhật, nên đã đến lúc chúng ta cùng nhau ngâm cứu các nguyên liệu, các món ăn của xứ
anh đào rồi nhỉ? Biết
đâu sau đó có bạn
sẽ nghĩ ra phương thức mới,
áp dụng cách nấu của
Nhật vào món Việt, càng thêm ích nước lợi nhà.
Tảo bẹ kombu và wakame
Nguyên
liệu căn bản đầu
tiên của nước
Nhật là tảo bẹ
kombu (có khi viết
là konbu). Nhật là đảo quốc,
bốn bề
giáp biển nên việc họ
lấy tảo
bẹ làm nguồn dinh dưỡng cũng chẳng có gì lạ. Người
Nhật lôi nguyên bẹ tảo
lên bờ phơi
khô, như vậy
tảo sẽ
cô đọng chất
ngọt tốt
hơn, và sau đó dân tình mới
lấy tảo
khô này chế biến ra món.
Phơi
tảo làm kombu ở Nhật.
Kombu phơi khô
xong sẽ
nom như
thế
này, nếu
xài ít thì người
mua phải
tự cắt nhỏ ra, xài nhiều thì dùng hết cả bẹ.
Đa
số tài liệu nói rằng cách dùng kombu để làm thức ăn là từ Trung Quốc du nhập sang Nhật, tất
nhiên ban đầu chỉ dùng theo kiểu thô sơ thôi vì đối
với Tàu, tảo bẹ
không phải món chính để ăn đại
trà. Nhưng do địa
lý Nhật phù hợp với
các nguyên liệu biển hơn
nên Nhật đã phát triển ra nhiều cách phơi, chế
biến và trữ kombu, biến kombu thành nguyên liệu quốc
hồn quốc
túy.
Về dinh dưỡng, kombu vô cùng nhiều i-ốt
và các khoáng chất,
nếu thiếu
i-ốt thì ăn kombu sẽ hiệu
quả hơn
ăn muối có bỏ i-ốt,
nhất là với thành phần không nên xơi món mặn
như trẻ
em chẳng hạn.
Người Nhật dùng kombu đều đặn,
tuy nhiên mỗi lần dùng ít chứ không xài nhiều như
tảo wakame.
Kombu (trái) và wakame (phải)
Kombu
thuộc họ
Saccharina japonica, wakame thuộc
họ Undaria pinnatifida, cùng là rong
biển nhưng
thuộc hai họ khác nhau. Kombu nguyên bẹ to, thường để tnấu
nước dùng, gói ướp thực phẩm.
Còn wakame nhỏ, chủ yếu
để bỏ
vào canh súp, hoặc
làm xa-lát rong biển.
Kombu tạo ngọt,
wakame thì không. Wakame dễ
nở mềm,
có thể đem bỏ vào canh rong biển, bỏ
vào mì. Chứ kombu quá cứng để
ăn trực tiếp
như vậy.
Với
tính nhanh nở
mềm, nhiều bạn thích bỏ nhúm rong wakame vào
mì gói, chỉ
cầm châm nước sôi là mì nở, rong cũng nở. Như vậy tô mì có xíu… chất rau, ăn đỡ cảm thấy “tội lỗi”. Wakame cũng bé, gọn, dễ trữ hơn kombu nên
các
bạn Nhật bận bịu thích mua wakame để đầy nhà, có gì tiện tay bỏ vô các món “ăn liền”.
Tất nhiên nếu nấu mì theo kiểu tự hầm nước dùng là ta vẫn có thể bỏ thêm wakame vào, không phải đợi mì gói mới mon men đi ăn rong.
Xa-lát rong biển wakame. Do dễ nở nên lấy wakame làm xa-lát tiện hơn. Kombu phải nấu thật mềm, hầm lâu mới xắt nhỏ ra làm xa-lát được.
Nhìn
chung người Nhật ăn wakame nhiều hơn,
và lượng i-ốt trong wakame cũng thấp lắm.
Thực ra do kombu có quá nhiều i-ốt
nên dân Nhật mỗi ngày chỉ dùng ít thôi, quá tải i-ốt
không tốt đâu, cơ thể
không tiêu thụ nổi cũng gây ra bệnh như
thường. Tuy không tạo ngọt
như kombu, wakame lại “lành” hơn.
Nhắc tới
chuyện ngọt,
vì sao lấy kombu nấu nước
dùng để làm canh thì canh sẽ ngon hơn hẳn
từng là điều bí ẩn
với dân Nhật. Đến
năm 1908, vị giáo sư Nhật
Kikunae Ikeda phát hiện
rằng trong kombu có chất tạo
ngọt glutamic acid, và chính chất này đã làm mọi nguyên liệu đi cùng nó ngon hơn. Canh nấu từ
nước dùng có kombu vì thế mới
ngon ngọt tuyệt
vời.
Ông Ikeda.
Nghiên
cứu kombu xong, ông Ikeda chế ra bột
ngọt nhân tạo, và công ty Ajinonmoto chính thức ra đời. Tất
nhiên bột ngọt
nhân tạo chẳng
tốt bằng
mua luôn kombu về
nấu, do kombu còn cung cấp nhiều
dưỡng chất khác chứ không chỉ tạo
ngọt, và quan trọng hơn
nữa là bây giờ không ma nào chiết xuất
bột ngọt
từ kombu đâu, do kombu chẳng hề
rẻ. Gần
như toàn bộ
bột ngọt
trên thị trường
bây giờ là chiết xuất
từ bắp GMO. Cứ
mua kombu và né bột
ngọt đi cho lành.
Do kombu có chất glutamic acid, nên
khi chúng ta ngâm kombu khô cho nở,
sau đó lấy
kombu này quấn
cá quấn
thịt
là sẽ
“ướp” thịt cá với bột ngọt tự nhiên đấy.
Đem phần cá quấn kombu ấy đi nướng hoặc áp chảo thì ngon phải biết. Chiêu này áp dụng cho thịt cũng được, nhưng dùng
cho cá
vẫn hợp hơn.
Chả
trách sao lắm
khi bữa
cơm Nhật chỉ cần khía cá nướng là ngon lắm rồi, chúng ta không nên sợ rằng nếu không ướp hóa chất như bột ngọt bột nêm là vị món ăn sẽ không đậm đà nhé.
Katsuobushi
Katsuobushi
– dịch nôm na là cá ngừ khô – tất nhiên làm từ cá ngừ, nguyên liệu không có gì nhưng cách làm lại
ôi thôi mệt mỏi. Đầu
tiên phải lóc cá ra thành từng miếng,
sau đó luộc sơ với
nhiệt độ
thấp, nhổ
xương, và đem hun khói. Quá
trình hun khói có thể
kéo dài đến 3 tuần. Cuối
cùng là công đoạn
đưa khuẩn
nấm vào cá để nấm
lên men, giúp thịt
cá ngon hơn, và đem miếng cá ấy đi phơi nắng
trong hai ngày, sau đó lại
đem ủ kín trong kho hầm. Càng lặp lại
quá trình cho khuẩn
nấm ăn cá, phơi nắng
và ủ thì katsuobushi càng ngon, do vi
khuẩn sẽ
chuyển hóa protein thành amino acid – chất tạo
cảm giác ngon miệng, cũng chính là chất phát sinh trong thịt bò sau khi ta đem treo nó lên, bởi vậy
thịt bò treo mới ngon hơn bò vừa
mổ.
Cá katsuobushi phủ đầy nấm, đang phơi nắng
Katsuobushi thành phẩm.
Katsuobushi
“già” trải qua nhiều lần
cấy nấm,
ủ và phơi nắng
sẽ đắt
tiền hơn
katsuobushi “trẻ”. Để
làm ra katsuobushi “già” thì thời
gian cấy nấm,
phơi nắng,
với ủ
xoay vòng phải tốn từ
3 đến 4 tháng, bởi vậy
chúng đắt là phải. Người
Nhật gọi
katsuobushi “già” bằng
tên “honkarebushi”, bên trong honkarebushi thường
đỏ quạch
như ngọc.
Mặt
cắt của honkarebushi – loại katsuobushi đắt nhất, kỳ công nhất.
Katsuobushi
rất cứng,
loại “già” được phơi nắng
với cấy
nấm nhiều
lần còn cứng nữa.
Cá khô nhưng nom như…
khúc gỗ. Katsuobushi từng vào sách kỷ lục
thế giới
vì nó là loại nguyên liệu nấu
ăn… cứng nhất
hành tinh, dùng nó phang vào đầu
không chừng đầu
sẽ bể.
Người Nhật không bao giờ lấy
nguyên phần katsuobushi để nấu
hết, họ
phải dùng bàn bào đặc biệt
và bào miếng cá ra thành từng dải
mỏng te.
Bào katsuobushi bằng bàn bào đặc biệt, người Nhật gọi nó là bàn bảo kezuriki. Lưỡi của bàn bào này rất dễ… cùn, vì miếng cá quá cứng mà, vì vậy muốn học ẩm thực Nhật cho đàng hoàng là
cũng phải
học thêm một khóa chăm sóc bàn
bào, mài lưỡi
bàn bào nữa
cơ, khổ thế, chẳng phải cứ học nấu là xong đâu.
Katsuobushi nguyên miếng to nằm cạnh loại đã bào mỏng ra.
Đa
số người
Nhật ngày nay mua katsuobushi đã bào mỏng, đóng bịch sẵn,
họ thường
đổ tội
cho cuộc sống
bận bịu,
không có thời gian ngồi bào cá với chăm sóc bàn bào như cha ông ngày xưa.
Không thể tin rằng cách đây chừng trăm năm, bào katsuobushi là việc của
trẻ con trong nhà, bây giờ chính phủ Nhật
còn phải mở
lớp dạy
bào katsuobushi cho thành phần
“không biết gì”, do thành
phần này ngày một nhiều.
Nhưng nhà hàng xịn
của Nhật
cho tới bây giờ tất
nhiên vẫn bắt
nhân viên nai lưng
ra bào cá với bảo
quản lưỡi
bào mỗi ngày chứ không mua loại bào sẵn bao giờ. Thôi ít ra các đầu bếp
đỉnh cao của Nhật
vẫn còn bắt nhau phải làm từng công đoạn truyền thống,
chứ trên dưới đều quên hết cả,
cứ thế
bỏ Ajinonmoto để khỏi
xài kombu hay cá katsuobushi thì Nhật
kiếm đâu ra lắm Michelin thế.
Công
cuộc nghiên cứu hai nguyên liệu này tới đây tạm dừng,
cách nấu chúng như thế
nào, mọi người
ráng chờ kỳ sau nhé.
*
_______________
Nguồn:
soi.today
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét