Cửu và Long và một bầy linh vật
Đặng Thái
Trong phần thảo luận của bài Hàn Quốc, Candid có hỏi:
“Bác cho hỏi 7 linh vật với 9 linh vật là những linh vật gì? Ở Tử Cấm Thành em thấy trên mái ngói hay có một loạt các tượng phù điêu nhỏ trang trí xếp thành hàng nhưng cũng không rõ là gồm các hình gì. Ở khu Hoàng thành Thăng Long thì
em thấy có đầu chim phượng bằng đất, chắc cũng là 1 trong 9 linh vật?”
Bài viết này để trả lời một cách đầy đủ cho những câu hỏi trên của Candid, nhân tiện cung cấp thêm một số kiến thức về hình tượng trang trí trong kiến trúc cung đình Đông Á. Toàn bộ ảnh trong bài lấy từ internet.
*
Người Trung Hoa cổ đại cho rằng chín (9) là con số tượng
trưng
mạnh
mẽ
nhất
cho quyền
lực
tối
cao. Số lẻ tượng
trưng
cho dương
tính thuộc về đàn ông, số chẵn tượng trưng cho âm tính thuộc về đàn bà. Trong hệ đếm thập phân của người Trung Quốc thì chín là số lẻ lớn nhất có một chữ số. Vì vậy chín là con số biểu hiện cho uy quyền tuyệt đối của nam giới hay là tính cực (kỳ) dương.
Trong tiếng Việt hiện đại ta vẫn thường bắt gặp các cụm “bay lên chín tầng mây”, “ bị
đày xuống
chín tầng
địa
ngục”,
“cửu đỉnh”,
“tru di cửu tộc”, “quan cửu phẩm”, “cửu vạn” (trong tổ tôm hay mạt chược chỉ có tối đa là chín quân trong một hàng) hay “đường
chín đoạn”.
Nói cách khác, chín là con số tối đa cho một sự vật đơn lẻ. Phật tổ Như Lai bấm đốt ngón tay tính nhẩm cho Thầy
trò Đường
Tăng gặp
đến
chín nhân chín bằng tám mươi mốt kiếp nạn là maximum khổ ải lúc bấy giờ rồi. Đồng thời, chữ cửu (九) lại đồng
âm với cửu (久) trong vĩnh cửu nghĩa là mãi mãi nên
càng làm cho chín trở thành con số may mắn và nó được chọn làm biểu tượng cho hoàng gia, đặc biệt
là Thiên tử Trung Hoa.
Một cổng trong Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. Trên mỗi cánh cổng có chín hàng đinh theo chiều ngang, chín cột đinh theo chiều dọc, không có một cổng nhà ai trong toàn thiên hạ được phép làm bằng con số này đừng nói là hơn.
Cung Vương Phủ là cung điện hoàng gia được bảo tồn tốt nhất ở Trung Quốc. Việt Nam ta hay gọi là Phủ Hòa Thân. Sinh thời, Hòa đại nhân chỉ dưới có vua Càn Long nên
nhà quan mà cũng vẫn
dám làm cổng
đỏ, đinh vàng. Cổng phủ này cũng có chín hàng
đinh nhưng
mà
mỗi hàng chỉ có bảy cái, nghĩa là kém
Hoàng đế
có một
tí ti. Sau khi Hòa Thân bị
ép phải
tự sát, phủ đệ này được giao lại cho các Hoàng tử khác dọn vào ở, vì là người của Hoàng tộc nên may quá không phải sửa cái cổng.
Số chín xuất hiện chi chít trong tất cả các
số
đo, số
liệu
của
Tử Cấm
Thành nói riêng và cung, điện, đền, đài Trung Quốc nói chung, nhưng về kiến trúc phong thủy thì lại là một mảng đề tài rất rộng khác, trong bài này ta chỉ tập
trung vào phần trang trí mà thôi. Biểu tượng
nổi
tiếng
nhất
của
Hoàng đế
Trung Hoa có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tất cả những nước nằm trong vòng văn hóa Hán chính là con rồng.
Rồng
là loài vật tưởng tượng có sức mạnh phi thường lại kết hợp với số chín thì mới thật xứng đáng để biểu trưng cho Hoàng đế –
người
chỉ dưới
có Trời
mà thôi. Con rồng Trung Hoa khác hẳn với
rồng
châu Âu, so sánh thì có rất nhiều điểm khác biệt từ hình dạng đến màu sắc, tuy nhiên có vài điểm quan trọng
hơn
cả:
rồng
Trung Hoa là giống đực, linh thiêng, cao quý và mang đến điềm
lành (từ
đây gọi
tắt
là rồng).
Cửu
Long Bích – bức
tường với chín hình rồng trong công viên Bắc Hải, Bắc Kinh, hoàn thành năm
1402. Hiện
nay chỉ
còn ba bức
loại
này trên toàn Trung Quốc.
Các con rồng
được ghép bằng gốm bảy màu, bố cục đăng đối và tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt về toán học.
Hình tượng rồng đã có rất nhiều biến đổi song song với chiều dài lịch sử Trung Quốc, từ những bích họa trong hang đá thời cổ đại
vẽ
Phục
Hy (tổ
tiên người
Hoa) đầu
người
đuôi rắn đến
con rồng
hoàn thiện
ta tham quan ở Tử Cấm Thành phải mất đến mấy nghìn năm. Ta cùng nghiên cứu hình tượng
rồng
thời
Minh-Thanh, khi mà con rồng đã hoàn thiện nhất về mặt triết học, lý luận, quy chuẩn cũng như mỹ thuật. Luôn luôn lưu ý một
điều
rằng
con rồng
và số
chín là đôi bạn không thể tách rời.
Cận
cảnh phù điêu rồng bằng sứ tráng men màu. Con rồng uốn mình thành chín khúc.
Rồng là loài sinh ra bởi trí tưởng
tượng
của
con người,
do đó người
Hoa muốn
tạo
nên một
sinh vật
dũng mãnh nhất, đẹp đẽ nhất trong muôn loài, bằng cách sử dụng
những
bộ
phận
khác nhau của các loài vật tồn tại thật trên đời, mà cụ thể là chín loài:
– Đầu: Lạc đà
– Sừng:
Hươu đực
– Mắt:
Thỏ
– Tai: Bò đực
– Mình: Rắn
– Bụng:
Cóc
– Chân: Hổ
– Móng: Đại bàng
– Vảy:
Cá chép
Trên mình rồng có tổng cộng 117 cái vảy. 117 vảy gồm 81 cái tượng trưng cho dương và 36 cái tượng trưng cho âm. 117 bằng
9 x 13, 81 bằng 9 x 9, 36 bằng 9 x 4. Bản thân các chữ số của 117 cộng lại cũng bằng chín. Lúc bấy giờ đa phần người Trung Quốc còn chưa biết đến chữ số kiểu Ả Rập nhưng toán học
của
họ
đã phát triển đến mức cộng được các chữ số trong một số chỉ với chữ tượng hình.
Rồng đại diện cho vua thì đương nhiên mọi
vật
dụng
của
vua đều
phải
có hình rồng và được gọi tên đi kèm chữ rồng. Áo vua mặc gọi là long bào, giường vua nằm
gọi
là long sàng, bô đi vệ sinh của vua cũng được gọi là long tiện hồ. Đương nhiên cái nhà vua ở
không thể
không có hình rồng. Tuy nhiên ở Tử Cấm Thành chúng ta lại thấy
không chỉ rồng
mà trên mái nhà còn rất nhiều linh vật hình thù kỳ quặc khác nhau.
Ảnh
chụp
tại điện Thái Hòa, chính điện của Cố Cung. Trang trí diềm mái với mức độ tối đa chỉ dành riêng cho Thiên Tử Trung Hoa. Từ trái sang: Rồng, lính canh, chín
linh vật
và người
cưỡi chim.
Trong hình trên, người lính canh cầm
kiếm ở
phía trước
đầu
rồng
đứng
thứ mười,
cùng với
chín linh vật kia tạo thành một hàng thập (行什).Ta vẫn
thường
nghe thấy
từ hàng ngũ là do trong tổ chức
quân đội
thời
cổ,
năm người
đứng
thành một hàng ngũ, mười
người
thành một hàng thập. Trong trường
hợp
này, hàng thập có ý nghĩa là đoàn quân hộ vệ
cho Thiên tử. Chín linh vật còn lại là chín đứa con trai (tưởng tượng) của rồng thường được chạm khắc ở nhiều loại công trình khác nhau vì mỗi con mang một
biểu
tượng,
gồm:
– Bồ lao (蒲牢) là tên một loài thú ở biển, hay giành thức ăn với cá kình, khi bị cá kình đánh thì rống lên. Người
ta thường
chạm
hình bồ
lao trên móc treo chuông, còn chày đánh chuông thì khắc
hình cá kình để chuông kêu cho to.
– Tù ngưu (囚牛) con vật thích âm nhạc nên hay được
tạo
hình trên nhạc cụ.
– Li vẫn (螭吻 ) là loài thú màu vàng, không có sừng.
Các đầu xà nhà hay chạm con li gọi là “li đầu” để
xua đuổi tà ma, chướng
khí. Nóc cung điện thì đắp
hai con rất to hai đầu để tránh hỏa
hoạn.
– Trào phong (嘲風) giống
con sư tử đứng
vững
như vách đá, thường
đặt ở bốn
góc mái nhà
– Nhai Xải (睚眦) thường nổi cơn thịnh nộ và thích giết chóc nên hay được chạm khắc lên vũ khí như
chuôi kiếm, đầu đao
– Bí Hí (贔屭) đầu
rồng,
mình rùa lại
yêu thích văn chương nên hay được
chạm
khắc đỡ văn bia.
– Bệ Ngạn (狴犴) hình dáng giống
hổ,
răng nanh dài và sắc, thích cãi lý và tranh tụng đồng thời lại dữ tợn để thị uy nên cái mặt hay được tạo tác trên cồng nhà ngục
và công đường
nhằm
răn đe kẻ
phạm
tội.
– Toan nghê (狻猊) đầu
rồng,
mình sư tử. Ngày nay chữ toan nghê dùng để gọi
con sư tử.
Con này thích nằm và ngồi tĩnh lặng nên hay được dùng trong điêu khắc ở đền
miếu:
đỉnh
đốt
trầm,
đỉnh
cắm
hương,
bệ
ngồi
của
các vị
thánh trong Phật giáo.
– Tiêu đồ (椒圖) chỉ thích cuộn
tròn nằm yên, thu mình trong vỏ như con trai, con ốc nên hay được dùng làm tay nắm trên cánh cổng để bảo vệ gia chủ khỏi kẻ xâm nhập.
Ngoài ra còn một số lí thuyết khác, tên khác cho chín con vật này và có thêm một
số
con vật
nữa
như:
– Bá Hạ (霸下) giống rùa thích mang vật nặng nên chuyên đỡ bia
– Thao Thiết (饕餮) mắt to, miệng rộng, phàm ăn tục uống nên được đúc trên các đồ dùng trong ẩm
thực
– Giải Trãi (獬豸) giống dê có một sừng, phân biệt được
chính tà nên chuyên húc kẻ gian mà cụ
Trần
Nguyên Đán đã lấy tên đặt
cho cháu ngoại mình. Nhà Hán làm cái mũ của quan giữ việc xét đoán hình ngục có một
cái sừng,
gọi
là mũ giải
trãi để tượng
trưng
cho sự
ngay thẳng.
– Tỳ Hưu (貔貅) là con sư tử có cánh nhưng đặc biệt rất được ưa chuộng trong phong thủy vì nó có khả năng hóa giải điềm xấu, mang đến vận may và đặc biệt là nó không có hậu môn nên chỉ ăn tiền vào cho gia chủ chứ không thải ra một xu nào cả. Riêng quan điểm cá nhân của mình thì dù khoa học có chứng minh được tác dụng của nó là thật thì mình cũng sẽ không dùng cái con quái gở, trái quy luật tự nhiên này trong phong thủy, nó chỉ thể hiện bản chất tham lam của con người ta mà thôi, bất chấp quy luật căn bản nhất của tiền là tính lưu thông.
Ở những tòa nhà ít quan trọng hơn thì có khi chỉ có một con linh vật. Tuy nhiên từng viên ngói lưu ly vẫn đầy đủ hình rồng ở trong.
Bác Candid còn nhắc đến cả Hoàng thành Thăng Long nên nhân tiện nói luôn. Thuyết về những linh vật ở trên ra đời vào thời Minh khi mà chế độ Quân chủ chuyên chế Trung Quốc đạt đến đỉnh cao rực rỡ cùng với sự trở lại của người Hán trên ngai vàng nên rất chi tiết từng con một và quy định rõ ràng. Còn từ đời Minh về trước, mọi sự không phức tạp như thế, đặc biệt là đời Lý Trần ở ta còn chịu rất ít ảnh hưởng từ Nho giáo phương Bắc nên bản sắc của chúng ta phần nào rõ ràng hơn.
Hình ảnh 3D phục dựng điện Càn Nguyên triều Lý trong Hoàng thành
Thăng Long cũng với
chín hình trang trí trên mái và đầu
rồng.
Rồng cũng là hình tượng đóng vai trò rất
quan trọng
trong văn hóa Việt, chúng ta cũng nhận mình là con Rồng,
kinh đô cũng đặt tên theo Rồng. Tuy nhiên An Nam là cõi ở xa, không thấm
nhuần
văn minh của Thiên Triều nên dùng cũng rồng có hơi
tùy tiện. Đình chùa của thường dân mà hứng lên là cũng khắc, cũng gắn
lên mái rồng phượng đủ cả. Còn trong trường hợp cung điện của “An Nam Quốc Vương” này thì sao?
Đây chính là hiện vật viên ngói gắn hình rồng trong lá bồ đề mà các họa sĩ dùng để phục dựng trong ảnh trên. Nghĩa là mái
cung điện
thời
Lý cũng gắn
9 hình tượng
trưng
cho Hoàng
đế nhưng cả chín đều là hình rồng chứ không phải là các con quái thú.
Rồng thời Lý Trần rất khác rồng Trung Hoa vì mình uốn mười
hai khúc, đầu cá sấu, mình trơn như lươn, chỉ có ba móng, trông mềm mại
như một
loài vật
bơi
dưới
nước
hơn
là bay trên trời,
phù hợp
với
văn hóa sông nước của người mình. Tuy nhiên hình tượng này đã bị
xóa sổ
khi nhà Lê du nhập văn hóa Trung Quốc và tôn sùng đạo
Khổng,
đặc
biệt
đến
thời
nhà Nguyễn,
sự
Hán hóa quá mạnh mẽ thì con rồng đã giống Trung Hoa như tạc. Chúng ta cũng có rất nhiều
những
linh vật
khác với
Trung Hoa như con sấu, con nghê, voi đá, chó đá… nhưng những
bằng
chứng
về
chúng trong kiến trúc cung điện thì chẳng còn bao nhiêu, đành tiếp tục
đợi
các nhà khảo cổvậy.
Còn đây là đầu chim phương bằng đất thời Trần mà Candid nhắc tới.Phượng hoàng là loài chim tưởng tượng, tính âm, tượng trưng cho phụ nữ nên sẽ không xuất hiện ở điện của các ông mà sẽ chỉ có mặt tại các cung của các bà hoàng hậu, phi tần mà thôi.
Một linh vật trên ngói thời Lý, không rõ là chim, là vịt hay phượng hoàng cách điệu nhưng rõ ràng là giống cái và dùng cho cung điện của nữ giới. Thực ra phượng hoàng là một cặp, phượng là con đực, hoàng là con cái nhưng khi đi với rồng, rất dương tính thì người ta chỉ dùng chung từ phượng hoàng, rất âm tính.
Nhật
Bản trung đại là nước lạc hậu về văn hóa và cách
biệt
về địa lý nên mái ngói có hơi khác
Trung Nguyên.
Hình
trang trí
mặt quỷ theo tín ngưỡng dân gian Nhật Bản này gọi là Onigawara (tiếng Hán: 鬼瓦 – Quỷ ngõa tức là ngói hình quỷ). Cái tượng ở đầu
hồi phía trên gọi là Shibi (tiếng Hán: 鴟尾 – Si vĩ là đuôi diều hâu) dựa trên hình ảnh của con Shachihoko là một con đầu hổ mình cá chép phun nước làm mưa, dùng
để trấn hỏa, chống cháy nhà (bằng niềm tin).
_______________
Nguồn:
soi.today
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét