Đặc biệt thị Seoul (bài 3): Quyền lực nằm ở đâu?
Cung, Phủ hay Đài, Đường?
Đặng
Thái
Lời
mở đầu:
Chính phủ
Đại Hàn Dân Quốc đang tiến hành dời thủ đô từ Seoul về một thành phố được xây mới hoàn toàn đặt tên là Sejong (Thế Tông) ở xa hơn về phía nam. Như đã
nói
ở
bài trước,
vị trí của Seoul quá nguy hiểm khi có chiến tranh nổ ra, vì vậy mục tiêu của thủ đô mới là quy hoạch lại một cách khoa học trụ sở các cơ quan đầu não (theo phong thủy), đảm bảo an toàn cho chính quyền trong mọi tình huống và giảm tải áp lực đô thị hóa khủng khiếp đang đè nặng lên Seoul. Nhưng chúng
ta sẽ
không tìm hiểu
về Sejong trong bài này,
thay vào đó sẽ
tiếp
tục nghiên cứu một số công trình quan trọng của Nhà nước đã và vẫn sẽ nằm lại Seoul.
Các di tích cổ
quan trọng của
triều đình kiêm điểm du lịch (từ
trái qua theo chiều
kim đồng hồ):
Đàn Xã Tắc (Sajik), Cảnh Phúc Cung (Gyeongbokgung), Xương Đức
Cung (Changdeokgung), Xương
Khánh Cung
(Changgyeonggung), Tông
Miếu (Jongmyo), Đức Thọ
Cung (Deoksugung) và Khánh Hi Cung (Gyeonghuigung).
Xương
Đúc Cung
Sau khi Cảnh
Phúc Cung hết
bị phá lại bị cháy,
hoàng gia Triều Tiên đã chuyển sang sử dụng
cung điện lớn
thứ hai nằm cách cung điện lớn
nhất một
đoạn. Cung điện này nhỏ hơn,
phong cách kiến trúc khiêm nhường hơn, trang trí bớt lòe loẹt hơn
và quan trọng là tòa ngang dãy dọc phần
nhiều là đồ thật.
Đó là Xương Đức
Cung, điểm đến
thực sự
cho ai muốn tìm hiểu kiến
trúc và lối sống cung đình Hàn Quốc thuở
trước. Cung điện này nhiều cây xanh hơn trong khuôn viên nhưng lại
ít khách tham quan mà nhiều
chỗ sân đất nện
bụi bặm
trông hơi xơ
xác tiêu điều, mặc
dù mình đánh giá là hài hòa hơn
hẳn cung bê tông-đá tảng đằng
kia.
Đôn Hóa Môn – Cổng
chính vào Xương Đức
Cung, nước sơn trên gỗ
đã bạc màu. Trên tầng hai có cái chuông đồng cổ
nặng tám tấn.
Xương
Đức
Cung thường được gọi là Đông Cung vì nó nằm phía Đông cung điện chính. Ai mê phim cổ trang thì hẳn đã quen tai cụm từ
Đông cung Thái tử.
Sở dĩ gọi
như vậy
vì Thái tử kế vị
luôn sống trong cung điện nằm
phía Đông cung điện
của vua đang tại vị.
Đây là một truyền thống
của các triều đình Khổng giáo: người đàn ông được chọn để
thừa kế
ngôi Hoàng Đế sau lễ tấn
phong Thái tử thì sẽ phải
ra ở Đông cung. Hướng Đông là hướng mặt trời
mọc, tức
là đem lại sinh khí hàm ý thể hiện
sự phát triển đi lên. Có một điều
mà ta thấy nhiều
phim cổ trang Hàn Quốc thường
“ăn gian” đó là dùng cụm
Đông cung Thái tử
trong khi các vua Triều
Tiên chỉ xưng
Vương, nên thực tế
chỉ sử
dụng Đông cung Thế tử, giống như
con của chúa Trịnh ở
ta cũng gọi là Thế tử
vậy.
Đông Cung Đồ
– bản đồ
toàn cảnh Xương
Đức
Cung (bên trái) và Xương
Khánh Cung (bên phải), là quốc bảo
số 249 của Hàn Quốc. Tranh vẽ trên lụa bồi
giấy, ghép bởi 16 tấm gỗ.
Tranh và bản đồ cổ
của Hàn Quốc còn rất nhiều,
vẽ cực
đẹp, nét bút rất tinh xảo. Đặc
biệt là tranh chân dung vua chúa, quan
lại nhìn mà xuýt xoa cho họ và xót xa cho nước mình.
Cung điện
này cũng được xây theo quan
điểm bối sơn lâm
thủy
nghĩa là núi sau lưng,
nước trước mặt. Phía sau dựa vào núi Bắc Nhạc,
phía trước có dòng suối Câm Xuyên. Tuy nhiên các tòa nhà
lại không hề được
xây duy ý chí theo một
trục như
Cảnh Phúc Cung mà xoay, đặt đủ
kiểu. Tưởng
lộn xộn
mà thực ra lại rất
phù hợp, hòa lẫn với
khung cảnh xung quanh. Có lẽ vì thế mà cung điện vẫn
tồn tại
sau bao lần binh lửa dù đã bị tàn phá khá nhiều.
Nội
thất Nhân Chính Điện với
ngai vàng, cửa kính (đồ cổ)
và đèn điện! Những cái bóng đèn lủng lẳng
này do chính công ty Edison sản
xuất. Vua Triều Tiên cũng ăn chơi, đầu
tư hẳn
nhà máy điện với nhập
khẩu bóng đèn nguyên chiếc từ
Mỹ.
Phần
đẹp nhất
của cung điện lại
nằm ở
phía sau cùng, đó là hậu
uyển.
Và phần này có cổng riêng để… thu phí! Mình đã bực mình quay ra xong lại chép miệng móc túi mua vé và may là cũng thấy đáng đồng tiền
bát gạo. Kết
luận lại
là muốn xem cung điện ở
Seoul, chỉ cần đi Xương Đức
Cung là đủ.
Sau khi người
Nhật chiếm
Triều Tiên, vua Thuần Tông bị giam lỏng trong Xương Đức
Cung, đến khi vua băng hà thì lầu các cũng bị Nhật
tháo dỡ gần
hết, còn Cảnh Phúc Cung thì bị đập
đi xây Phủ Toàn Quyền. Công trình đồ sộ
này cho thấy người Nhật cũng mê tín không kém. Phải chọn
ngay giữa cung điện để
xây nhằm trấn
long mạch. Tòa nhà này xây đúng theo hình
chữ nhật
nằm ngang (日) tượng
trưng cho Nhật Bản
(日本), nằm chềnh
ềnh ở
đấy để
Hàn Quốc không ngóc đầu lên được.
Ảnh chụp Triều
Tiên Tổng Đốc
Phủ từ
trên cao, phía sau là những
gì còn lại của
Cảnh Phúc Cung. Vào thời điểm
đó, Nhật muốn
Tây hóa nên thuê rất
nhiều kiến
trúc sư Tây thiết
kế các công trình trong nước và ở thuộc
địa. Tòa nhà này của kiến
trúc sư người
Đức George de Lalande. Ông này chết trước
cả khi khởi công nên người Nhật tiếp
quản và mất 10 năm để hoàn thành.
Phủ
được xây chắn trước
mặt Cần
Chính Điện, là một khối
granite khổng lồ, vững
chắc nằm
ngang nhằm chặn
đứng trục
Bắc Nam của quy hoạch cung điện, được
ghi lại trong phương án thiết kế
bằng tiếng
Nhật: “nhằm nhấn
mạnh sự
chiếm đóng của Nhật
và ngăn chặn sự phản
kháng của Hàn Quốc”. Cổng
Quang Hóa Môn phía trước
tòa nhà may mắn không bị phá (nhằm dọn
quang phía trước, phô trương hết mặt
tiền của
Phủ Toàn Quyền) do có đề nghị
của Hội
nghề thủ
công Nhật Bản
cho dời đi chỗ khác để bảo
tồn.
Sau khi người Hàn Quốc giành độc lập, họ lôi ngay cái cổng về dựng ở chỗ cũ. Tòa nhà thì tồn tại thêm 50 năm nữa rồi bị đập bỏ nhân dịp kỉ niệm 600 năm Cảnh Phúc Cung. Chính quyền đưa ra lập luận rằng đây là biểu tượng của chủ nghĩa đế quốc Nhật, xây lên chủ đích làm “mất mặt” Cần Chính Điện, còn dân thì phản đối vì vừa tốn tiền, vừa phí mất một di sản kiến trúc trong khi ga Seoul (cũ) và tòa thị chính Seoul (cũ) thì được giữ lại. Thế rồi chính phủ vẫn quyết phá (cho nó thoáng) và mất cả một năm mới phá xong. Ngày nay cái mái vòm bằng đồng và một số mảnh vụn vẫn còn được giữ lại ở Bảo tàng Độc lập thành phố Cheonan.
Phải
công nhận là rất hoành tráng, phong cách Tân cổ điển
bề thế,
quyền uy và… nặng nề.
Kiến trúc của Nhật
thời Đế
quốc sau Minh Trị Duy Tân là sự chắp
vá, lắp ghép của các loại kiến
trúc phương Tây nên nhiều khi xấu khủng
khiếp và thô kệch cục
mịch. Cái tòa nhà quốc hội
Nhật hay chiếu lên thời sự
mới thật
là kinh hoàng.
Quang Hóa Môn
Trong bức
ảnh trên còn hai công trình biểu tượng
cần nói đến. Đó là cổng Quang Hóa Môn phía trước và Nhà Xanh ở phía sau. Trước hết là Quang Hóa Môn, chỉ là cái cổng vào cung nhưng là biểu
tượng được người Hàn Quốc trân trọng và tôn vinh. Cổng mang về chỗ
cũ sau độc lập
chưa ấm
chỗ thì chiến tranh liên Triều đến
phá tan tành. Sau này, cụ
Park Chung Hee cho dựng
lại bằng
bê tông và còn “ngự
bút” biển tên bằng chữ
Hangul để thể
hiện chủ
trương sử dụng
triệt để
chữ Hàn, bài trừ chữ
Hán trong giáo dục
thế hệ
hậu chiến.
Khánh thành Quang Hóa Môn bê tông-xi măng với biển
tên chữ Hàn.
Đến
năm 2006, cổng này lại được
dỡ ra xây lại bằng
gỗ. Một
cuộc thăm dò ý kiến cho thấy 60% người được hỏi muốn
biển tên mới làm lại sẽ
viết bằng
chữ Hàn nhưng cuối
cùng Nhà nước vẫn cho viết bằng
chữ Hán theo truyền thống.
Vật liệu
làm cổng chọn
toàn gỗ thông xịn từ
khắp cả
nước, mà cấm tuyệt
đối dùng gỗ nhập
khẩu. Thế
mà mới khánh thành dịp Quang Phục Tiết năm
2010, đến tháng 11 biển tên đã bị nứt
toác ngay chính giữa.
Bộ Văn hóa đổ tại
trời hanh khô, còn chuyên gia thì khẳng định
rằng vì quyết tâm chính trị, muốn
làm cho kịp ngày lễ nên gỗ phơi
chưa đủ
nắng.
Khu vực
phía trước cổng, được
cải tạo
thành quảng trường
Quang Hóa Môn – trung tâm chính trị
của Đại
Hàn Dân Quốc. Khu vực này được thiết kế
như một
nơi trình diễn
văn hóa, một công viên cho
khách du lịch và người dân đi bách bộ. Hằng
năm đây còn là điểm
xuất phát của cuộc
thi Marathon Seoul rất
lớn (có khi bác Candid nên
đăng ký tham gia). Đó là những
cách làm rất hay để tạo
ra một không gian sinh hoạt cộng
đồng thực
sự sống
động giữa
lòng đô thị, không bị “chết”
như Thiên An Môn. Thế
nên để đảm
bảo vui chơi lành mạnh,
chính quyền kiên quyết cấm
biểu
tình chỗ
này, vì vậy ai qua đây sẽ thấy
biểu tình theo Quang Hóa Môn style, cảnh sát đứng vây kín mít thành vòng tròn,
không thấy người
biểu tình đâu cả, chỉ
thấy tiếng
loa phóng thanh vọng
ra từ bên trong hàng rào cảnh sát.
Tượng
vua Thế Tông trên quảng trường
Quang Hóa Môn. Hàn Quốc
sùng bái ông này hết
mức, in lên tiền, làm phim, dựng tượng,
viết tiểu
thuyết và đặt tên cho các công trình và cả thủ
đô mới. Tòa nhà bên tay trái Đại Vương
phấp phới
cờ
hoa
là Đại sứ
quán Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ.
Bên tay phải
Đại Vương
không nhìn thấy trong ảnh là Trụ sở
Bộ Ngoại
giao Hàn Quốc. Ngay giữa trung tâm chính trị, Đại
sứ quán Mỹ nằm
một đống
to uỵch, hiên ngang đối diện
với Bộ
Ngoại giao. Mà Đại sứ
quán Mỹ thì các bác cũng biết rồi,
đã nằm ở
đâu thì như cái mụn ruồi
vừa to vừa đen, lại có lông loăn xoăn (dây thép gai)
điểm lên giữa mặt
khu phố. Không có cái Đại sứ
quán-Lãnh sự quán nào của Mỹ
không trông như cái lô cốt hoặc
nhà máy luyện kim.
Thế
nhưng việc
không chỉ đơn
thuần là một Đại
sứ quán nằm trên quảng trường
trung tâm mà bởi vì nó còn nằm bên tay trái. Bên trái luôn được người phương Đông thời cổ
coi trọng hơn
bên phải. Quan văn bao giờ cũng đứng bên tay trái chỗ vua ngồi, bên phía tay trái ngay sát chủ nhà là vị trí trang trọng nhất
cho khách. Đông Cung của
Thái Tử nằm
về hướng
Đông là vì vua ngồi
quay mặt hướng Nam
thì hướng Đông ở bên tay trái. Nên phong thủy phương
Đông trọng trước
sau phải trái hơn là Đông Tây Nam Bắc.
Cho đến khi văn hóa phương Tây trọng bên phải du nhập vào châu Á thì các nước mới dần
thay đổi, sinh ra một loạt
những thuật ngữ
thiên vị bên phải: lẽ
phải, sai trái, tay lái thuận, tay lái nghịch, cánh hữu, cánh tả, cánh tay phải (của)…
Vì vậy Đại
sứ quán Mỹ nằm
bên tay trái đủ thấy sự
tôn trọng của
Chính phủ dành cho người Mỹ đến
nhường nào. Ở Sài Gòn có hai tòa nhà tương tự, số
4 Lê Duẩn với
27 Nguyễn Thị
Minh Khai cũng được
ưu ái cho ngồi
chễm chệ
bên trái Dinh Độc
Lập.
Thanh Ngõa Đài
Thanh Ngõa Đài – Tòa nhà có mái ngói màu xanh. Đây
là nơi ở
và làm việc của Tổng
thống Đại
Hàn Dân Quốc – người có quyền lực
tối cao trong Chính phủ, nằm
ngay phía sau Cảnh
Phúc Cung (có thế
thấy trong ảnh trên). Tên tiếng Anh là Blue House, nhiều người
cho là nhái tên của
White House.
Ngay sau khi lập
quốc, các lãnh đạo Hàn Quốc đã không làm việc trong Phủ Toàn Quyền nữa
mà chuyển về
khu vực phía sau bởi thấy
rằng vận
mệnh của
chế độ
thuộc địa
đó chỉ tồn
tại có 35 năm ngắn ngủi.
Các Tổng thống
đã ở chỗ
này từ lâu nhưng Tòa nhà mái xanh này mới
được xây lại bằng
bê tông năm 1991, mô phỏng
theo kiến trúc cổ truyền.
Thiên hạ đồn
rằng lúc đào móng, người ta tìm thấy tấm
bia đá khắc mấy chữ:
“Thiên hạ
đệ nhất phúc địa”
(miếng đất
đẹp nhất
cả nước).
Nhìn vào hình ta có thể
thấy rõ ràng tòa nhà này khác với các công trình trong Cung ở chỗ
nó dựa lưng
chính xác vào núi Bắc Nhạc.
Thiết kế
phong thủy rất
cẩn thận
từ con đường dẫn vào (trong ảnh)
được cố tình làm chéo đi để nhà không bị thế
“đường đâm”. Nhà mà bị đường
đâm trực diện
mặt tiền
thì rất khó làm ăn (như số
2, đường Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội chẳng
hạn). Hai bên trồng hai hàng tùng vừa tạo
cảnh quan vừa che bớt tòa nhà, không biết giống
tùng gì mà rất đẹp (nhân lần đi này mới biết
nhiều người
vẫn tưởng
tùng và thông là hai cây khác nhau).
Khác với
các đời trước,
kiến trúc sư thời
hiện đại
cho quay hướng Đông Nam, mà
lệch hẳn
khỏi trục
cung điện để
không bị chắn
trước mặt. Chả
biết các bác có ý đồ gì lại
vẽ cái hình mũi tên trên sân quay đầu nhọn
vào nhà.
Nhưng
chẳng biết
phong thủy ra sao, chỉ thấy
chưa có đời
Tổng thống
nào từng hạ
cánh an toàn cả: người bị ám sát, người bị lật
đổ, người
bị kiện
ra tòa, người đi tù, người tự sát… nên dân Hàn Quốc mới
đồn rằng
cái miếng đất
này không nhiều phúc như người
ta tưởng, cứ nghĩ là long mạch ở
đây mà cố bám trụ làm gì, nên họ tìm cách giải thích, nào là núi hình cánh cung bắn sau lưng, nào là cầu
cống đâm tua tủa vào, và đặc biệt
là thời Nhật
chiếm đóng, quân đội đã cho đóng hàng trăm cái cọc bằng
sắt, có cái dài đến chục
mét trên khắp các ngọn núi quanh khu vực rồi.
Hàn Quốc đã lôi lên bằng sạch
nhưng “cọc
nhổ đi rồi
lỗ bỏ
không”, các mạch khí trong núi
đều đã đứt cả.
Năm 2004, Tổng thống Roh Moo-hyun đệ trình Quốc hội
kế hoạch
dời đô đi Sejong, các lãnh đạo đối
lập gồm
có hai Tổng thống
sau này là ông Lee Myung Bak và bà Park Geun Hye phản đối
kịch liệt.
Thế rồi
năm 2009, ông Roh Moo-hyun nhảy
xuống hẻm
núi tự sát, thế là chẳng ai bảo ai, Quốc hội
thông qua luôn, cho đẩy
nhanh tiến độ
xây dựng Sejong.
Quốc
hội Nghị
sự đường
Quốc
hội Nghị
sự đường
Công trình cuối
cùng cần nói đến chính là Quốc hội
Nghị sự
đường. Tòa nhà được hoàn thành năm 1975
sau 6 năm xây dựng
dưới thời Park Chung Hee xây mãi bên kia
sông, tách khỏi trung tâm
chính trị. Trước
đó Quốc hội
vạ vật
khắp nơi,
mỗi năm họp một
chỗ bởi
dưới hàng loạt chính phủ độc
tài, Quốc hội
Hàn Quốc chỉ
chắp tay rủ áo, đưa gì là kí mà thôi.
Quốc
hội Hàn Quốc là cơ quan đứng
đầu nhánh Lập pháp, có 300 thành viên nhưng phòng họp
có đến 400 ghế để
dự phòng khi thống nhất
hai miền có… 100 ghế cho miền Bắc.
Lại nhớ
cuộc thi thiết kế
Tòa nhà Quốc hội ở
ta, các phương án đưa
ra, cái nào cũng một cục
vuông ở dưới,
một cục
tròn ở trên. Ở đây cũng vậy, phương
án thiết kế
cũng là trời tròn, đất vuông. Hai mặt trước
sau có 8 cột, hai mặt hai bên có 4 cột, tổng
cộng 24 cột tượng
trưng cho 24 tiết khí trong một năm âm lịch. Thân cột là hình bát giác, ghép toàn bằng đá nhưng không thấy
hàng cột tăng thêm phần uy nghi gì cả, khối
nhà ở trong thì chi chít cửa số.
Đã xấu lại
còn đầu gấu,
an ninh nghiêm ngặt
lắm (không gần dân như bên mình), mấy
anh bảo vệ
mặc áo phản quang cứ xua gậy như
đuổi gà nên càng không thấy đẹp.
Cận
cảnh mặt
tiền, trông cứ như
trường phái kiến trúc – tượng đài
của Triều
Tiên!
Vậy
là chúng ta đã tham quan một
loạt những
công trình ở Seoul trong suốt chiều
dài cả trăm năm lịch sử.
Qua đó lại nhấn
mạnh thêm tư tưởng
phong thủy Đông phương cùng những biểu
tượng đạo Khổng
gắn bó chặt chẽ
với nhau trong hệ tư
duy của người
Hàn Quốc. Tuy nhiênnhững nền
tảng vững
chắc tưởng
như không gì lay chuyển
này của xã hội lại
đang dần dần
mờ nhạt
khi Hàn Quốc bước vào một thời
kì phát triển mới: kỉ
nguyên công nghệ
cao. Trong bài tới,
chúng ta sẽ lướt qua một vòng Seoul đương đại,
cực kỳ trẻ trung và hoàn toàn Tây phương.
*
_______________
Nguồn:
soi.today
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét