Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội
Tác giả Chitto - phuot.vn
Quán
Trấn Vũ
Người
ta vẫn hay nói đến đền Trấn Bắc của Thăng Long là Quán Thánh, hay đền Trấn Vũ, tương truyền do Lý Thái Tổ dựng.
Tuy nhiên, xét ra điều này có lẽ không được phù hợp. Trước hết Lý Thái Tổ chủ yếu lo dựng chùa, ngay cả đàn Xã Tắc cũng không quan tâm, và ngay
cả ngôi đền thờ Long Thần ở phía Nam cũng đổi thành chùa thờ Phật, liệu có thể cho dựng một ngôi đạo quán cho Đạo giáo được chăng?
Trong khi đó Lý
Thái Tông dựng khá nhiều đền thờ thần, và sử cũng ghi rằng khi các đạo sĩ xin được hành đạo, vua đã cho dựng Quán Thái Thanh. Cho nên
tôi nghĩ có thể đền Quán Thánh (như ta quen gọi) được lập vào thời Lý Thái Tông thì phù hợp hơn. Tuy nhiên thời đó vẫn còn rất nhỏ hẹp, nên không được ghi vào sử.
Thực tế đây là ngôi Đạo quán, mang cả hai tên: Chân Vũ quán,
và Trấn Vũ quán.
Đây là một điều khá thú vị, khi mà tại Trung Quốc chỉ có tên Chân Vũ, còn Việt Nam đặt chệch thành Trấn Vũ, và dùng cả hai tên. Có lẽ từ Trấn Vũ là ghép của Trấn Thiên Chân Vũ, là vị thần được tôn thờ rất mực trong Đạo giáo (tôi sẽ viết kĩ hơn khi đến bài dành riêng cho ngôi đền / đạo quán này).
Tên của ngôi đạo quán này không được nhắc đến trong bất kì sử sách nào đến mãi đến tận đời Hậu Lê, khi Đạo giáo được khôi phục, và Quán Trấn Vũ được tu sửa to lớn, đúc tượng đồng lớn. Thế là từ ngôi Đạo quán không tên tuổi đời Lý, được tôn sùng như là ngôi đền Trấn phương Bắc của thành Thăng Long, và được gọi là đền Trấn Vũ hay Quán Thánh.
(Dòng chữ viết: Chùa Phật lớn, phía Nam của hồ Lớn. Người Pháp nhầm đây là chùa, và nhầm tượng đồng Trấn Vũ là tượng Phật. Hồ Lớn - Grand Lac - là hồ Tây, hồ Nhỏ - Petit Lac - là hồ Gươm)Lý Thánh Tông
Sau thời Lý Thái Tông phong thần,
dựng đền, Lý Thánh Tông nối
ngôi cũng cho xây dựng
nhiều công trình, mà vang danh đến
nghìn năm sau là Văn Miếu (1070).
Lý Thánh Tông dù sùng Phật
giáo, nhưng cũng chuyển hướng trong cai trị
sang trọng dụng Nho học. Không chỉ thờ Phật
như ông nội, thờ thêm các Thần
linh mang màu sắc Đạo giáo như
cha, vua chính thức tôn thờ vị Thánh triết của
Trung Hoa là Khổng Tử, đặt tại phía Nam của
hoàng thành.
Cũng tại khu vực Văn Miếu, học theo Trung Quốc, đến đời
sau là Lý Nhân Tông đã lập Quốc Tử Giám (1076), để
ngày nay khắp mọi nơi tung hô là Đại học đầu
tiên của nước ta. Đại học chuyên giảng
dạy về Văn thơ, Lịch sử Tàu, Triết học
Tàu, và hoàn toàn bằng chữ của Tàu. Bốn trăm năm sau, những
tấm bia Tiến sĩ được dựng lên tại đây.
Những gì mà Văn
Miếu - Quốc Tử Giám đã có là di sản rất lớn, đến nỗi kể cả
khi triều Nguyễn dời đô vào Huế, và cố tình triệt hạ tầm
vóc của Thăng Long, thì Văn
Miếu Huế cũng vẫn rất tầm thường nhỏ bé, kém xa so với Văn
Miếu Thăng Long.
(Viết về Văn Miếu, lại phải có những bài viết
riêng, đầy đặn hơn, công phu hơn. Ở đây
chỉ là liệt kê một số dấu thời Lý Thánh Tông với
Thăng Long mà thôi.)
Cổng Văn Miếu những năm 1900, chỉ
riêng toà cổng này đã thể hiện tầm vóc lớn hơn Văn Miếu Huế, Văn Miếu Hưng Yên, Mao Điền.
Đời Lý Thánh Tông xây dựng một công trình để lại nhiều huyền thoại nhất, thậm chí còn liên quan đến cả một số sự kiện chính trị - xã hội gần đây, đó là Chùa - tháp Báo Thiên.
Hai năm sau khi lên ngôi, năm 1056, Lý Thánh Tông cho dựng ngôi chùa lớn nhất của Thăng Long, và cũng là lớn nhất toàn quốc: chùa Sùng Khánh Báo Thiên, đúc chuông nặng 1,2 vạn cân (chắc khoảng hơn 4 tấn) đặt trong chùa. Sang năm sau lại cho xây tháp Đại Thắng Tư Thiên 12 tầng, cao "vài chục trượng". Về sau để ngắn gọn hay gọi tắt là chùa Báo Thiên và tháp Báo Thiên.
Tháp chính xác cao bao nhiêu không rõ. Cứ coi như hai chục trượng, thì cũng hơn 60m rồi, gần gấp đôi Cột cờ Hà Nội ngày nay. Tầng trên cùng của tháp được dát đồng có ba chữ Đáo lý thiên (đến tận trời). Nhiều chỗ viết đúc bằng đồng, tôi nghĩ không thể làm được ở độ cao thế. Do đó tháp (hay đỉnh tháp?) được coi là một trong An Nam tứ đại khí, bốn báu vật lớn của nước Nam: gồm Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh. Bốn thứ đều to lớn làm bằng đồng, tuy nhiên không phải cùng lúc, mà từ cái đầu đến cái cuối cách nhau hơn một trăm năm.
Chùa và tháp Báo Thiên là chùa lớn nhất cho đến hết triều Trần. Khi giặc Minh xâm lược đã phá tháp Báo Thiên (và cả tứ đại khí). Đến triều Lê và đầu Nguyễn vẫn còn chùa, nhưng khi Hà Nội thất thủ, binh lửa tràn lan thì chùa bị bỏ hoang, cho nên khi Pháp vào thì dùng đất đó xây Nhà thờ Lớn Hà Nội.
Ngày nay, tất cả những gì còn lại của chùa Báo Thiên xa xưa chỉ còn lại một chiếc miệng giếng bằng đá nay để trước hang đá sau Nhà thờ Lớn. Miệng giếng gồm hai thớt đá liền khối lớn tạc hoa văn có lẽ của triều Lê, trên miệng còn nhiều vết hằn của dây gàu qua hàng trăm năm. Giếng xưa đã bị lấp lâu rồi, chỉ còn miệng giếng người ta mang bỏ sang đây.
Đền Voi Phục
Ngôi đền Trấn Tây - Voi Phục có một lai lịch không rõ ràng, và vị thần được
thờ trong đó cũng vậy. Người ta đều viết đền thờ thần Linh Lang, nhưng
Linh Lang là ai? mỗi chỗ viết một kiểu.
- Linh Lang là hoàng tử Hoằng
Chân, sống tại vùng Thủ Lệ.
- Linh Lang con của
Lý Thái Tông, hoặc Lý Thánh Tông (?).
- Đền thờ do Lý Thái Tông hoặc Lý
Thánh Tông sai dựng (?)
- Hoàng tử Hoằng
Chân có công đánh giặc Tống, trở về Thủ Lệ hoá thành thuồng
luồng lặn xuống hồ; hoặc là hi sinh trên sông Như
Nguyệt (?), nên được
phong làm thần.
Thoáng qua đã
thấy vô lý: không lẽ
cha dựng đền thờ con? Hơn nữa trận chiến chống Tống (1075 - 1076) xảy
ra vào đời Lý Nhân Tông, khi đó cả
Thái Tông, Thánh Tông đều đã chết rồi, thế thì làm sao Hoằng
Chân đã chết trận mà dựng đền thờ được?
Có nhiều người đã cố giải thích chuyện
này. Linh Lang thực ra là vị
Thuỷ thần vùng sông nước
suốt một dải đồng bằng sông Hồng,
được cư dân ven sông tôn thờ từ rất
lâu đời. Đến đời Lý Thái Tông hoặc
Thánh Tông dựng đền thờ ở phía Tây, khu vực
nhiều đầm hồ, lại thông với hồ
Tây.
Hoàng tử Hoằng Chân là con của Lý Thái Tông, em Lý Thánh Tông từng
sống ở đây, là một tướng giỏi về đánh thuỷ chiến, cùng Chiêu Văn
thống lĩnh cánh quân thuỷ
trong trận chiến với quân Tống trên sông Như
Nguyệt. Hoằng Chân hi sinh, được
người dân tôn thờ và
đồng nhất với thần Linh Lang, coi Hoằng
Chân là một hoá thân của
Linh Lang. Các truyền thuyết kì quái về Hoằng
Chân được dựng lên sau đó để thần
thánh hoá.
Đền thờ Linh Lang có suốt một dải đến tận Hải
Phòng. Khu vực nhà cũ của Hoằng Chân - Linh Lang được gọi
là Thủ Lệ, nghĩa là nơi giữ gìn lệ cũ thờ thần Linh Lang.
Đền thờ thần có hai con voi chầu ở
hai bên, nên dân gian goi là đền Voi Phục, được coi là Trấn
Tây của Thăng Long, ảnh
chụp từ năm 1883.
(Cũng nói thêm là ở
Thuỵ Khuê cũng
có một đền
Voi Phục, thờ Uy Linh Lang, lại
là vị thần đời
Trần, chứ
không phải Linh Lang)
Thờ thần Chămpa
Lý Thánh Tông sau khi đánh Chiêm Thành đã đem về Thăng Long một vị thần rất mới với người Việt: đó là vị nữ thần Chămpa.
Sử sách chép rằng vua khi đi đánh Chiêm Thành, qua cửa biển sóng to gió lớn, đêm được vị nữ thần báo mộng, xưng là chủ của đất này. Vua thờ cúng nữ thần đó thì sóng yên gió lặng. Đánh thắng, bắt được vua Chiêm là Chế Củ, Lý Thánh Tông lấy sạch kho tàng Chiêm Thành, lại bắt thêm 5 vạn người Champa về làm nô lệ riêng cho hoàng gia. Vua về Thăng Long bèn lập đền thờ vị nữ thần Chămpa đó, đầu tiên gọi là Hậu Thổ Phu nhân, còn gọi là Nam Quốc Chủ đại Địa thần. Chữ Nam quốc là để chỉ nước phía Nam của Đại Việt, tức Chiêm Thành. Đền thờ ở làng Yên Lãng cạnh sông Tô Lịch, phía Nam, ngoại thành.
Đến đời Trần tôn phong là Ứng thiên Hoá dục Nguyên trung Hậu Thổ Địa kỳ Nguyên quân.
Nhiều người cho rằng vị Nữ thần này chính là Bà mẹ xứ sở Ponagar của người Chăm. Lý Thánh Tông đem về lập đền thờ là một kiểu xâm lấn tâm linh, tất cả các thần của các vùng đất đều phải về cùng chỗ với vua.
Ngày nay đền đó trở thành đình Ứng Thiên, cuối phố Láng Hạ. Và cũng vì Nữ thần là Thần đất, cho nên khi tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển, thì Nữ thần này cũng được coi là Mẫu Địa.
Con rồng Thăng Long
Những người Chiêm Thành bị bắt về Thăng Long được giao cho việc thổ mộc, xây dựng các công trình cho Hoàng gia. Chính những người thợ tài hoa này đã khéo léo kết hợp giữa nghệ thuật điêu khắc Champa và Đại Việt, để tạo nên những tác phẩm rất đẹp, rất riêng cho triều Lý, không đâu có và cũng không lặp lại ở các triều đại sau.
Hình tượng con rồng đời Lý độc đáo rất riêng chỉ có từ sau đời Lý Thái Tông - Lý Thánh Tông, và là một biểu tượng đẹp. Cho đến về sau này, khi con rồng của Việt Nam có dáng vẻ dần giống rồng Trung Hoa (triều Nguyễn thì y hệt, chả khác gì), thì mới thấy con rồng đời Lý thật độc đáo.
Không chỉ con rồng, mà con phượng, con sư tử, sóc đá đời Lý cũng độc đáo, là tác phẩm kết hợp giữa văn hoá Trung - Việt - Chăm. Ngày nay các tác phẩm đó không còn nhiều, nhưng cũng vẫn là những đỉnh cao nghệ thuật tạo hình. Hai chữ Thăng Long có lẽ gắn liền với con rồng đời Lý hơn là bất cứ con rồng nào khác.
Con rồng đời Lý nguyên bản trên cột đá chùa Dạm
Và hình tượng con rồng đời Lý trên con đường gốm sứ, vị trí cầu Chương Dương
Thái hậu Ỷ Lan
Lần đầu tiên trong lịch sử Thăng Long có người phụ nữ nắm quyền tối cao, là bà Ỷ Lan. Sự tích về bà phần nào giống như truyện cổ tích.
Năm 1063, Vua Lý Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi mà không có con trai, đi chùa Dâu để cầu tự. Dọc đường, ngang làng Thổ Lỗi (nay là làng Siêu Loại, Gia Lâm, Hà Nội) đã gặp người con gái đẹp hái dâu, đứng tựa gốc lan, vua thấy lạ rước về cung, và gọi là Ỷ Lan để ngụ ý đứng tựa gốc lan. Tuy nhiên Ỷ Lan không được vào hoàng cung ngay mà phải bên ngoài, sát hoàng cung, chỗ chùa Kim Cổ bây giờ.
Ba năm sau, 1066, Ỷ Lan phu nhân sinh con trai, nên được phong làm Thần Phi, rồi Nguyên phi, đưa vào hoàng cung. Con trai bà đặt tên là Lý Càn Đức (cái đức của Trời), chưa được 1 tuổi đã phong làm Thái tử. Sau đó bà còn sinh một con trai nữa được phong là Sùng Hiền Hầu. Dù xuất thân dân dã nhưng bà tích cực học hỏi chính sự, tỏ rõ tài năng trong việc quản lý quốc gia.
Khi Càn Đức 3 tuổi, Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1069). Thường vua đi chinh chiến thì giao Thái tử giám quốc, nhưng Càn Đức còn nhỏ, mà Ỷ Lan lại có tài, nên vua giao cho bà làm Nhiếp chính, chứ không tin cậy vào hoàng hậu, khi đó bà mới khoảng 25 tuổi. Lần nhiếp chính này của Ỷ Lan thành công đến nỗi vua đánh không thắng, chán nản kéo quân về, thì nghe dân gian ca ngợi Nguyên phi Nhiếp chính là Phật bà Quan Âm. Thấy thế vua xấu hổ quyết tâm quay lại. Trận ấy thắng Chiêm Thành, bắt Chế Củ, cướp về của cải nô lệ rất nhiều, lại càng sủng ái Ỷ Lan.
Ba năm sau nữa, 1072, Lý Thánh Tông mất, khi đó Ỷ Lan 28 tuổi, làm Hoàng thái phi. Càn Đức lên ngôi, bà hoàng hậu vợ chính trở thành Thượng Dương hoàng thái hậu, liên kết với thái sư Lý Đạo Thành buông rèm nhiếp chính. Nhưng Ỷ Lan cao tay hơn, liên kết với Lý Thường Kiệt, và lại có con trai làm vua mới có 7 tuổi, nên đã lật ngược lại thế cục. Trước hết bà được phong Linh Nhân hoàng thái hậu, sau đó bắt giam Thượng Dương hoàng thái hậu, rồi bỏ chết đói cùng hơn 70 cung nữ (hoặc bắt tự tử để chôn theo Thánh Tông).
Sau khi loại bỏ Thượng Dương một cách khá tàn nhẫn, Ỷ Lan nhiếp chính lần thứ hai cho đến khi con trai đủ lớn để nắm quyền, thì lui về tìm hiểu Phật giáo. Cuối đời bà sám hối vì tội lỗi giết hoàng hậu trước kia, cho xây dựng hơn trăm ngôi chùa khắp nơi và thường xuyên tu ở chùa.
Ỷ Lan được coi là người phụ nữ không chỉ có sắc đẹp mà còn có tài và uyên bác bậc nhất của nước Việt, xuất thân bình dân nên khi ở ngôi cao cực phẩm vẫn hiểu dân chúng. Tuy có thủ đoạn trong chính trị nhưng công vẫn gấp hơn nhiều lần.
Ỷ Lan được thờ ở nhiều nơi. Trong nội thành là ở đình Yên Thái ngõ Yên Thái.
Đền chính của Thái hậu Ỷ Lan tại quê bà, nằm ở ngoại thành Thăng Long xưa, nay thuộc huyện Gia Lâm. Đền tuy bằng gạch đơn sơ nhưng khá đẹp. Cạnh đền là chùa, nơi xưa kia bà Ỷ Lan đã cho xây dựng để sám hối.
Hầu hết những con sóc (hay sấu) đá ở thành bệ đều bị vỡ mất phần đầu. Chỉ còn lại duy nhất 1 con còn nguyên vẹn, đào được tại khu Bách Thảo ngày nay. Có thể đó là khu vực cung điện phía Tây hoàng cung.
Có thể thấy điêu khắc bệ tượng hoa sen, thành bậc đá... đã được đặt thành chuẩn mực. Các thành bậc còn lại đều giống hệt nhau về trang trí, hình con sóc, chim phượng, hoa cúc dây. Nghệ thuật đời Lý không những rất độc đáo mà còn được chuẩn hoá rõ nét.
( còn tiếp )
_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn











Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét