Thứ Tư, 16 tháng 5, 2018

Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội (P.3)

Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội

Tác giả Chitto - phuot.vn

Quán Trn Vũ

Người ta vn hay nói đến đền Trn Bc ca Thăng Long là Quán Thánh, hay 
đền Trn Vũ, tương truyn do Lý Thái T dng.
Tuy nhiên, xét ra điu này có l không được phù hp. Trước hết Lý Thái T ch yếu lo dng chùa, ngay c đàn Xã Tc cũng không quan tâm, và ngay c ngôi đền th Long Thn phía Nam cũng đổi thành chùa th Pht, liu có th cho dng mt ngôi đạo quán cho Đạo giáo được chăng?

Trong khi đó Lý Thái Tông dng khá nhiu đền th thn, và s cũng ghi rng khi các đạo sĩ xin được hành đạo, vua đã cho dng Quán Thái Thanh. Cho nên tôi nghĩ có th đền Quán Thánh (như ta quen gi) được lp vào thi Lý Thái Tông thì phù hp hơn. Tuy nhiên thi đó vn còn rt nh hp, nên không được ghi vào s.

Thc tế đây là ngôi Đạo quán, mang c hai tên: Chân V
ũ quán, và Trn Vũ quán. Đây là mt điu khá thú v, khi mà ti Trung Quc ch có tên Chân Vũ, còn Vit Nam đặt chch thành Trn Vũ, và dùng c hai tên. Có l t Trn Vũ là ghép ca Trn Thiên Chân Vũ, là v thn được tôn th rt mc trong Đạo giáo (tôi s viết kĩ hơn khi đến bài dành riêng cho ngôi đền / đạo quán này).

Tên ca ngôi đạo quán này không được nhc đến trong bt kì s sách nào đến mãi đến tn đời Hu Lê, khi Đạo giáo được khôi phc, và Quán Trn Vũ được tu sa to ln, đúc tượng đồng ln. Thế là t ngôi Đạo quán không tên tui đời Lý, được tôn sùng như là ngôi đền Trn phương Bc ca thành Thăng Long, và được gi là đền Trn Vũ hay Quán Thánh.

(Dòng chữ viết: Chùa Phật lớn, phía Nam của hồ Lớn. Người Pháp nhầm đây là chùa, và nhầm tượng đồng Trấn Vũ là tượng Phật. Hồ Lớn - Grand Lac - là hồ Tây, hồ Nhỏ - Petit Lac - là hồ Gươm)


Lý Thánh Tông
Sau thi Lý Thái Tông phong thn, dng đền, Lý Thánh Tông ni ngôi cũng cho xây dng nhiu công trình, mà vang danh đến nghìn năm sau là V
ăn Miếu (1070).


Lý Thánh Tông dù sùng Pht giáo, nhưng cũng chuyn hướng trong cai tr sang trng dng Nho hc. Không ch th Pht như ông ni, th thêm các Thn linh mang màu sc Đạo giáo như cha, vua chính thc tôn th v Thánh triết ca Trung Hoa là Khng T, đặt ti phía Nam ca hoàng thành.


Cũng ti khu vc Văn Miếu, hc theo Trung Quc, đến đời sau là Lý Nhân Tông đã lp Quc T Giám (1076), để ngày nay khp mi nơi tung hô là Đại hc đầu tiên ca nước ta. Đại hc chuyên ging dy v Văn thơ, Lch s Tàu, Triết hc Tàu, và hoàn toàn bng ch ca Tàu. Bn trăm năm sau, nhng tm bia Tiến sĩ được dng lên ti đây.


Nhng gì mà Văn Miếu - Quc T Giám đã có là di sn rt ln, đến ni k c khi triu Nguyn di đô vào Huế, và c tình trit h tm vóc ca Thăng Long, thì Văn Miếu Huế cũng vn rt tm thường nh bé, kém xa so vi Văn Miếu Thăng Long.


(Viết v Văn Miếu, li phi có nhng bài viết riêng, đầy đặn hơn, công phu hơn. đây ch là lit kê mt s du thi Lý Thánh Tông vi Thăng Long mà thôi.)


Cng Văn Miếu nhng năm 1900, ch riêng toà cng này đã th hin tm vóc ln hơn Văn Miếu Huế, Văn Miếu Hưng Yên, Mao Đin.


Tháp Báo Thiên


Đời Lý Thánh Tông xây dựng một công trình để lại nhiều huyền thoại nhất, thậm chí còn liên quan đến cả một số sự kiện chính trị - xã hội gần đây, đó là Chùa - tháp Báo Thiên.

Hai năm sau khi lên ngôi, năm 1056, Lý Thánh Tông cho dựng ngôi chùa lớn nhất của Thăng Long, và cũng là lớn nhất toàn quốc: chùa Sùng Khánh Báo Thiên, đúc chuông nặng 1,2 vạn cân (chắc khoảng hơn 4 tấn) đặt trong chùa. Sang năm sau lại cho xây tháp Đại Thắng Tư Thiên 12 tầng, cao "vài chục trượng". Về sau để ngắn gọn hay gọi tắt là chùa Báo Thiên và tháp Báo Thiên.

Tháp chính xác cao bao nhiêu không rõ. Cứ coi như hai chục trượng, thì cũng hơn 60m rồi, gần gấp đôi Cột cờ Hà Nội ngày nay. Tầng trên cùng của tháp được dát đồng có ba chữ Đáo lý thiên (đến tận trời). Nhiều chỗ viết đúc bằng đồng, tôi nghĩ không thể làm được ở độ cao thế. Do đó tháp (hay đỉnh tháp?) được coi là một trong An Nam tứ đại khí, bốn báu vật lớn của nước Nam: gồm Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh. Bốn thứ đều to lớn làm bằng đồng, tuy nhiên không phải cùng lúc, mà từ cái đầu đến cái cuối cách nhau hơn một trăm năm.

Chùa và tháp Báo Thiên là chùa lớn nhất cho đến hết triều Trần. Khi giặc Minh xâm lược đã phá tháp Báo Thiên (và cả tứ đại khí). Đến triều Lê và đầu Nguyễn vẫn còn chùa, nhưng khi Hà Nội thất thủ, binh lửa tràn lan thì chùa bị bỏ hoang, cho nên khi Pháp vào thì dùng đất đó xây Nhà thờ Lớn Hà Nội.

Ngày nay, tất cả những gì còn lại của chùa Báo Thiên xa xưa chỉ còn lại một chiếc miệng giếng bằng đá nay để trước hang đá sau Nhà thờ Lớn. Miệng giếng gồm hai thớt đá liền khối lớn tạc hoa văn có lẽ của triều Lê, trên miệng còn nhiều vết hằn của dây gàu qua hàng trăm năm. Giếng xưa đã bị lấp lâu rồi, chỉ còn miệng giếng người ta mang bỏ sang đây.

Đền Voi Phc

Ngôi đềTrn Tây - Voi Phc có mt lai lch không rõ ràng, và v thn được th trong đó cũng vy. Người ta đều viết đền th thn Linh Lang, nhưng Linh Lang là ai? mi ch viết mt kiu.

- Linh Lang là hoàng t Hong Chân, sng ti vùng Th L.
- Linh Lang con ca Lý Thái Tông, hoc Lý Thánh Tông (?).
- Đền th do Lý Thái Tông hoc Lý Thánh Tông sai dng (?)
- Hoàng t Hong Chân có công đánh gic Tng, tr v Th L hoá thành thung lung ln xung h; hoc là hi sinh trên sông Như Nguyt (?), nên được phong làm thn.

Thoáng qua đã thy vô lý: không l cha dng đền th con? Hơn na trn chiến chng Tng (1075 - 1076) xy ra vào đời Lý Nhân Tông, khi đó c Thái Tông, Thánh Tông đều đã chết ri, thế thì làm sao Hong Chân đã chết trn mà dng đền th được?

Có nhiu người đã c gii thích chuyn này. Linh Lang thc ra là v Thu thn vùng sông nước sut mt di đồng bng sông Hng, được cư dân ven sông tôn th t rt lâu đời. Đến đời Lý Thái Tông hoc Thánh Tông dng đền th phía Tây, khu vc nhiu đầm h, li thông vi h Tây.

Hoàng t Hong Chân là con ca Lý Thái Tông, em Lý Thánh Tông tng sng đây, là mt tướng gii v đánh thu chiến, cùng Chiêu Văn thng lĩnh cánh quân thu trong trn chiến vi quân Tng trên sông Như Nguyt. Hong Chân hi sinh, được người dân tôn thđồng nht vi thn Linh Lang, coi Hong Chân là mt hoá thân ca Linh Lang. Các truyn thuyết kì quái v Hong Chân được dng lên sau đó để thn thánh hoá.

Đền th Linh Lang có sut mt di đến tn Hi Phòng. Khu vc nhà cũ ca Hong Chân - Linh Lang được gi là Th L, nghĩa là nơi gi gìn l cũ th thn Linh Lang.


Đền th thn có hai con voi chu hai bên, nên dân gian goi là đền Voi Phc, được coi là Trn Tây ca Thăng Long, nh chp t năm 1883.

(Cũng nói thêm là Thu Khuê cũng có mt đền Voi Phc, th Uy Linh Lang, li là v thn đời Trn, ch không phi Linh Lang)


Thờ thần Chămpa

Lý Thánh Tông sau khi đánh Chiêm Thành đã đem về Thăng Long một vị thần rất mới với người Việt: đó là vị nữ thần Chămpa.

Sử sách chép rằng vua khi đi đánh Chiêm Thành, qua cửa biển sóng to gió lớn, đêm được vị nữ thần báo mộng, xưng là chủ của đất này. Vua thờ cúng nữ thần đó thì sóng yên gió lặng. Đánh thắng, bắt được vua Chiêm là Chế Củ, Lý Thánh Tông lấy sạch kho tàng Chiêm Thành, lại bắt thêm 5 vạn người Champa về làm nô lệ riêng cho hoàng gia. Vua về Thăng Long bèn lập đền thờ vị nữ thần Chămpa đó, đầu tiên gọi là Hậu Thổ Phu nhân, còn gọi là Nam Quốc Chủ đại Địa thần. Chữ Nam quốc là để chỉ nước phía Nam của Đại Việt, tức Chiêm Thành. Đền thờ ở làng Yên Lãng cạnh sông Tô Lịch, phía Nam, ngoại thành.

Đến đời Trần tôn phong là Ứng thiên Hoá dục Nguyên trung Hậu Thổ Địa kỳ Nguyên quân.

Nhiều người cho rằng vị Nữ thần này chính là Bà mẹ xứ sở Ponagar của người Chăm. Lý Thánh Tông đem về lập đền thờ là một kiểu xâm lấn tâm linh, tất cả các thần của các vùng đất đều phải về cùng chỗ với vua.

Ngày nay đền đó trở thành đình Ứng Thiên, cuối phố Láng Hạ. Và cũng vì Nữ thần là Thần đất, cho nên khi tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển, thì Nữ thần này cũng được coi là Mẫu Địa.


Con rồng Thăng Long

Những người Chiêm Thành bị bắt về Thăng Long được giao cho việc thổ mộc, xây dựng các công trình cho Hoàng gia. Chính những người thợ tài hoa này đã khéo léo kết hợp giữa nghệ thuật điêu khắc Champa và Đại Việt, để tạo nên những tác phẩm rất đẹp, rất riêng cho triều Lý, không đâu có và cũng không lặp lại ở các triều đại sau.

Hình tượng con rồng đời Lý độc đáo rất riêng chỉ có từ sau đời Lý Thái Tông - Lý Thánh Tông, và là một biểu tượng đẹp. Cho đến về sau này, khi con rồng của Việt Nam có dáng vẻ dần giống rồng Trung Hoa (triều Nguyễn thì y hệt, chả khác gì), thì mới thấy con rồng đời Lý thật độc đáo.

Không chỉ con rồng, mà con phượng, con sư tử, sóc đá đời Lý cũng độc đáo, là tác phẩm kết hợp giữa văn hoá Trung - Việt - Chăm. Ngày nay các tác phẩm đó không còn nhiều, nhưng cũng vẫn là những đỉnh cao nghệ thuật tạo hình. Hai chữ Thăng Long có lẽ gắn liền với con rồng đời Lý hơn là bất cứ con rồng nào khác.

Con rồng đời Lý nguyên bản trên cột đá chùa Dạm

Và hình tượng con rồng đời Lý trên con đường gốm sứ, vị trí cầu Chương Dương


Thái hậu Ỷ Lan

Lần đầu tiên trong lịch sử Thăng Long có người phụ nữ nắm quyền tối cao, là bà Ỷ Lan. Sự tích về bà phần nào giống như truyện cổ tích.

Năm 1063, Vua Lý Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi mà không có con trai, đi chùa Dâu để cầu tự. Dọc đường, ngang làng Thổ Lỗi (nay là làng Siêu Loại, Gia Lâm, Hà Nội) đã gặp người con gái đẹp hái dâu, đứng tựa gốc lan, vua thấy lạ rước về cung, và gọi là Ỷ Lan để ngụ ý đứng tựa gốc lan. Tuy nhiên Ỷ Lan không được vào hoàng cung ngay mà phải bên ngoài, sát hoàng cung, chỗ chùa Kim Cổ bây giờ.

Ba năm sau, 1066, Ỷ Lan phu nhân sinh con trai, nên được phong làm Thần Phi, rồi Nguyên phi, đưa vào hoàng cung. Con trai bà đặt tên là Lý Càn Đức (cái đức của Trời), chưa được 1 tuổi đã phong làm Thái tử. Sau đó bà còn sinh một con trai nữa được phong là Sùng Hiền Hầu. Dù xuất thân dân dã nhưng bà tích cực học hỏi chính sự, tỏ rõ tài năng trong việc quản lý quốc gia.

Khi Càn Đức 3 tuổi, Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1069). Thường vua đi chinh chiến thì giao Thái tử giám quốc, nhưng Càn Đức còn nhỏ, mà Ỷ Lan lại có tài, nên vua giao cho bà làm Nhiếp chính, chứ không tin cậy vào hoàng hậu, khi đó bà mới khoảng 25 tuổi. Lần nhiếp chính này của Ỷ Lan thành công đến nỗi vua đánh không thắng, chán nản kéo quân về, thì nghe dân gian ca ngợi Nguyên phi Nhiếp chính là Phật bà Quan Âm. Thấy thế vua xấu hổ quyết tâm quay lại. Trận ấy thắng Chiêm Thành, bắt Chế Củ, cướp về của cải nô lệ rất nhiều, lại càng sủng ái Ỷ Lan.

Ba năm sau nữa, 1072, Lý Thánh Tông mất, khi đó Ỷ Lan 28 tuổi, làm Hoàng thái phi. Càn Đức lên ngôi, bà hoàng hậu vợ chính trở thành Thượng Dương hoàng thái hậu, liên kết với thái sư Lý Đạo Thành buông rèm nhiếp chính. Nhưng Ỷ Lan cao tay hơn, liên kết với Lý Thường Kiệt, và lại có con trai làm vua mới có 7 tuổi, nên đã lật ngược lại thế cục. Trước hết bà được phong Linh Nhân hoàng thái hậu, sau đó bắt giam Thượng Dương hoàng thái hậu, rồi bỏ chết đói cùng hơn 70 cung nữ (hoặc bắt tự tử để chôn theo Thánh Tông).

Sau khi loại bỏ Thượng Dương một cách khá tàn nhẫn, Ỷ Lan nhiếp chính lần thứ hai cho đến khi con trai đủ lớn để nắm quyền, thì lui về tìm hiểu Phật giáo. Cuối đời bà sám hối vì tội lỗi giết hoàng hậu trước kia, cho xây dựng hơn trăm ngôi chùa khắp nơi và thường xuyên tu ở chùa.

Ỷ Lan được coi là người phụ nữ không chỉ có sắc đẹp mà còn có tài và uyên bác bậc nhất của nước Việt, xuất thân bình dân nên khi ở ngôi cao cực phẩm vẫn hiểu dân chúng. Tuy có thủ đoạn trong chính trị nhưng công vẫn gấp hơn nhiều lần.

Ỷ Lan được thờ ở nhiều nơi. Trong nội thành là ở đình Yên Thái ngõ Yên Thái.

Đền chính của Thái hậu Ỷ Lan tại quê bà, nằm ở ngoại thành Thăng Long xưa, nay thuộc huyện Gia Lâm. Đền tuy bằng gạch đơn sơ nhưng khá đẹp. Cạnh đền là chùa, nơi xưa kia bà Ỷ Lan đã cho xây dựng để sám hối.

Trong khu vực đền - chùa, còn lại ba di vật từ thời Lý, cùng thời với Ỷ Lan. Đó là đôi sư tử đá và một bệ thành bậc bằng đá chạm con sóc, với con phượng ở thành. Nét điêu khắc mang đậm dấu ấn kết hợp Việt - Champa.


Hầu hết những con sóc (hay sấu) đá ở thành bệ đều bị vỡ mất phần đầu. Chỉ còn lại duy nhất 1 con còn nguyên vẹn, đào được tại khu Bách Thảo ngày nay. Có thể đó là khu vực cung điện phía Tây hoàng cung.

Có thể thấy điêu khắc bệ tượng hoa sen, thành bậc đá... đã được đặt thành chuẩn mực. Các thành bậc còn lại đều giống hệt nhau về trang trí, hình con sóc, chim phượng, hoa cúc dây. Nghệ thuật đời Lý không những rất độc đáo mà còn được chuẩn hoá rõ nét.

( còn tiếp )
_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phim tài liệu Mùa đông 1991

Phim tài liệu Mùa đông 1991 Bộ phim tài liệu "Mùa đông năm 1991" phân tích về sự tan rã của Liên Xô - sự kiện được coi là “thảm họ...

Popular Posts