Thứ Tư, 16 tháng 5, 2018

Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội (P.2)

 Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội

Tác giả Chitto - phuot.vn

Quy mô thành Thăng Long

Sách cũ chép rằng Cao Biền đắp thành Đại La dài gần 2000 trượng, tức khoảng 6 km. Như thế thành này rộng khoảng bằng khu phố cổ ngày nay thôi.
Khi Lý Thái Tổ dời đô về, đã đắp lại thành với quy mô rộng hơn rất nhiều. Sách của ta không chép chi tiết về thành, nhưng có thể suy đoán được thông qua chính sử, các dấu tích còn lại ngày nay.
Thời Lý lấy thành cũ của Cao Biền làm trung tâm, mở rộng về phía Tây sát đến sông Tô Lịch, phía Đông sát đến sông Hồng. Có rất nhiều giả thiết, nghiên cứu của nhiều người về tường thành qua các triều đại, tôi không thể viết ra được hết, chỉ là sơ lược thôi.
Giả sử thành Thăng Long đời Lý, Trần, Lê có quy mô giống nhau, thì với các dấu tích còn lại, thành sẽ có hình dáng như bên dưới đây, với căn cứ là bản đồ Hồng Đức đời Lê và cả trên thực địa.
Khu hoàng thành màu vàng, lấy núi Long Đỗ làm trung tâm, phía Bắc sát sông Tô Lịch (cũ), đến ngã ba Tô Lịch - Thiên Phù (Bưởi) vòng xuống đến Cầu Giấy, theo đường Đê La Thành đến ô Chợ Dừa, tiếp đến nút Kim Liên, nối sang cuối Trần Khát Chân ra đên Nguyễn Khoái rồi theo đê sông Hồng lên tận Yên Phụ.
Trong các đoạn thành đó, ngày nay vẫn còn thấy khá rõ hầu hết, chỉ có đoạn phía Nam đã bị san bằng, thành đường Đại Cồ Việt và Trần Khát Chân.
Lại có một đoạn thành chạy dọc Giảng Võ đến Nguyễn Thái Học, vòng phía nam Hoàng thành sang phía đông. Đoạn thành này chỉ còn lại chút dấu tích là sự chênh lệch cốt đường giữa hai nửa của phố Giảng Võ mà thôi.


Bản đồ trên lấy Hoàng thành (màu vàng) là Thành Hà Nội đời Nguyễn. Các tài liệu đều cho rằng Hoàng thành thời Lý - Trần - Lê rộng hơn thế về cả ba phía. Trong Hoàng thành, chính giữa là điện Càn Nguyên dựng trên núi Long Đỗ. Hoàng thành mở bốn cửa là Đại HưngTường PhùDiệu ĐứcQuảng Phúc.
Bao quanh Hoàng thành là Kinh thành, hoặc La thành. Trong sử chỉ từng đề cập đến 5 cửa của Kinh thành là: cửa Triều Đông ở chỗ dốc Hoè Nhai bây giờ, cửa Tây Dương là Cầu Giấy bây giờ, cửa Trường Quảng là ô Chợ Dừa bây giờ, cửa Nam là ở nút Kim Liên hoặc cuối Bà Triệu bây giờ, cửa Vạn Xuân ở Đông Mác bây giờ. Nhưng có thể còn nhiều cửa khác nữa, đặc biệt là cửa thông ra sông Hồng.
Từ sông Hồng có sông Tô Lịch chảy xuyên vào thành rồi lại ra khỏi thành ở chỗ hồ Trúc Bạch, lại có lối thông từ sông Hồng vào hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm). Mùa lũ nước sông có thể tràn vào thành gây ngập khắp nơi.

Người ta nói rất nhiều đến Tứ Trấn Thăng Long là bốn ngôi đền ở bốn phía, tuy nhiên chúng không phải chủ ý ban đầu của các vua Lý, mà có lẽ đời sau "nâng tầm" lên:
- Đền Bạch Mã hướng Đông: là ngôi đền cổ do Cao Biền dựng, có từ trước thành Thăng Long.
- Đền Trấn Vũ hướng Bắc: người ta nói là Lý Thái Tổ dựng, nhưng tôi nghi ngờ điều này vì nhiều nguyên nhân sẽ viết sau. Lai lịch ngôi đền này không rõ ràng, năm dựng cũng không rõ, thờ một vị thần rất Tàu.
- Đền Voi Phục hướng Tây: dựng đời Lý Thái Tông hoặc Lý Thánh Tông, cũng không cụ thể.
- Đền Kim Liên hướng Nam: mãi đến đời Lê mới thấy "xuất hiện" trong ghi chép, trước đó không ai biết lai lịch có hay không, như thế nào.

Hơn nữa bốn ngôi đền này quay hướng rất lộn xộn, mỗi cái một kiểu. Đền Trấn Vũ thực ra không phải là đền mà là Đạo quán, lại còn nằm ngoài vòng Kinh thành, cách sông Tô Lịch. Những điều này khiến tôi cho rằng cái truyền thống về Thăng Long tứ trấn chỉ có từ đời Lê, chứ không phải từ đời Lý.


Những dấu xưa
Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi, dời đô liền cho xây 8 ngôi chùa ở quê mình tại Cổ Pháp, và hàng loạt chùa ở Thăng Long. Trong suốt đời Lý, những ngôi chùa lớn được dựng lên, song sử sách ghi lại đến hàng chục chùa. Thế nhưng vết tích của các ngôi chùa đó còn lại đến nay không nhiều.
Ngôi chùa cổ nhất của đất Thăng Long là chùa Khai Quốc dựng từ thời Lý Nam Đế, 500 năm trước Lý Thái Tổ, ngoài bãi sông Hồng, cho nên thực tế là ngoài vòng thành Thăng Long. Mãi đến đời Lê mới dời vào vị trí cung Thuý Hoa, là hòn đảo giữa hồ Tây, và đổi là Trấn Quốc
Chùa Chân Giáo dựng năm 1024 là ngôi chùa lớn, gắn liền với sự kiện bi thảm là vua Lý Huệ Tông phải thắt cổ tự tử tại đây khi bị Trần Thủ Độ ép, chấm dứt nhà Lý. Dấu tích không còn gì, chỉ ngờ rằng nằm tại khu phía đường Đội Cấn.
Chùa Diên Hựu với đài Liên Hoa (được gọi là chùa Một Cột) đã quá nổi tiếng, dựng đời Lý Thái Tông năm 1049, ngay bên cạnh Hoàng thành. Vị trí chính xác vẫn không xê dịch, chỉ có chùa xưa không còn gì. Cái chùa Một Cột hiện nay dựng lại năm 1955 tại vị trí chùa cũ.
Chùa Báo Thiên dựng năm 1057, mà tên chính xác là Sùng Khánh Báo Thiên, ngôi Quốc tự lớn nhất trong triều Lý - Trần, với ngọn bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên được coi là công trình đồ sộ và cao nhất của các triều đại phong kiến Việt Nam, đã đi vào huyền thoại. Ngày nay đó là vị trí nơi khu vực đặt Nhà thờ Lớn.
Chùa Hoè Nhai nằm gần bến sông, đến nay vẫn còn nguyên. Đây cũng là dấu tích của Đông Bộ Đầu với chiến thắng lịch sử triều Trần.
Chùa Láng gắn liền với Từ Đạo Hạnh, dựng thời Lý Anh Tông, ngày nay vẫn là ngôi chùa rất đẹp, đặc biệt là giữ nguyên được khuôn viên chùa rộng vào bậc nhất Hà Nội.

Chỉ riêng trong triều Lý Thái Tổ, tại Thăng Long đã dựng lên các chùa: Hưng Thiên, Vạn Tuế, Thiên Quang, Thiên Đức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Chân Giáo, Đại Giáo. Ngày nay chẳng ngôi nào còn dấu tích.

Dấu tích Nam Giao
Khi người Pháp phá điện Nam Giao, họ chỉ giữ lại một tấm bia lớn rất đẹp là "Nam Giao điện bi ký" của triều Lê, mang về bảo tàng của viện Viễn Đông Bác Cổ giữ, nay là Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Tấm bia lưu giữ dấu tích của một Tế đàn quan trọng nhất thời phong kiến, nay dầm mưa dãi nắng cùng nhiều di vật khác, mà hoài tưởng về thời huy hoàng trong quá khứ.

Có câu chuyện rằng khi Mỹ nối lại quan hệ chính thức với Việt Nam, đi tìm nơi đặt Đại sứ quán, và họ nhắm cái nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo đó. Tuy nhiên khi tham khảo ý kiến của GS. Trần Quốc Vượng, thì cụ Vượng bảo rằng: Đó là đất đàn Nam Giao, đất thiêng của người Việt, các ông mà làm Sứ quán ở đó thì không được đâu. Và thế là họ chuyển sang Láng Hạ.
Nhưng sau đó, mảnh đất này cũng thuộc về Vincom, nơi xây toà tháp thứ ba.

Đàn Xã Tắc
Đàn Nam Giao để tế trời, khẳng định Thiên mệnh. Đàn Xã Tắc để tế thần Xã (Hậu Thổ) là thần Đất, và thần Hậu Tắc là thần Lúa.
Đàn Xã Tắc phải đắp bằng đất, hình vuông, khác với đàn Nam Giao hình tròn (trời tròn đất vuông), lấy đất từ khắp các địa phương trong toàn quốc về đắp, tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Xã Tắc do đó cũng để chỉ đất nước của vua.
Triều Đinh đã lập đàn Xã Tắc tại Hoa Lư rồi, tuy nhiên Lý Thái Tổ không quan tâm đến việc này khi dời đô về Thăng Long. 38 năm sau, đời con của ngài là Lý Thái Tông, năm 1048 mới lập đàn ở phía Tây Nam, sử ghi là ngoài cửa Trường Quảng, tức khu vực phía ngoài Ô Chợ Dừa ngày nay (Tuy nhiên vẫn có người nghi ngờ vị trí này).
Triều Trần phong tôn hiệu ghép chung hai thần là: Thiên tổ Địa chủ Xã Tắc Đế quân
Triều Nguyễn chuyển vào Huế, đàn bị bỏ hoang, không ai thờ cúng nữa.
Ngày nay không rõ chính xác nền đàn Xã Tắc ở đâu, chỉ có địa danh Xã Đàn, gồm cả một làng rộng, một hồ, một chùa, và gần đây nhất là con phố "đắt nhất hành tinh" cũng mang tên Xã Đàn. Chỗ đầu phố mà người ta xôn xao là tìm thấy nền đàn Xã Tắc cũng chỉ là nghi ngờ, chứ chẳng chứng minh được, giờ dựng cục đá rõ to đánh dấu.
Trong chùa Nam Đồng gần đấy, năm 2008 có dựng một bàn thờ, cột đá xà gỗ mái ngói khá đẹp, đề chữ Thiên Tổ Địa chủ Xã Tắc đế quân để thờ vọng, coi như là để khôi phục hương hoả đã bị dứt từ hơn hai trăm năm trước.
Bàn thờ vọng thần Xã Tắc trong chùa Nam Đồng

Đền Đồng Cổ
Công trình mà Lý Thái Tông dựng ngay sau khi lên ngôi không phải chùa như cha mình, mà là đền Đồng Cổ.

Lý Phật Mã khi còn là Thái tử, đi đánh Chiêm Thành qua vùng Thanh Hoá, núi Khả Phong gần sông Mã, núi ấy còn gọi là núi Đồng Cổ (tức Trống đồng), và khúc sông Mã cũng gọi là sông Đồng Cổ. Thái tử nằm mộng thấy vị thần núi Đồng Cổ báo mộng và hứa âm phù, do đó khi về Thăng Long đã dựng miếu nhỏ thờ thần. Có lẽ khi đó vì chỉ là Thái tử, chưa có nhiều quyền, nên miếu phài nằm phía ngoài thành, đúng hơn là ở chân thành.

Ngay khi Lý Thái Tổ vừa mất, ba người em trai của Lý Phật Mã đều làm Vương làm loạn định cướp ngôi của anh. Nhờ Lê Phụng Hiểu sức khoẻ hơn người, chém chết một người, hai người kia bỏ chạy, mà Lý Phật Mã lên ngôi, tức Lý Thái Tông, sau rồi tha tội cho hai em, đời sau gọi là Loạn tam vương. (lịch sử lặp lại: triều Đinh thì Nam Việt vương Đinh Liễn giết em là Đinh Hạng Lang, triều Tiền Lê thì Lê Long Đĩnh giết vua anh để lên làm vua, nên các 3 vương kia cũng định theo lối đó. Lê Phụng Hiểu về sau cũng được phong làm Thần).

Tương truyền đêm trước đó Lý Phật Mã lại nằm mộng thấy thần Đồng Cổ báo trước, nên mới có sự chuẩn bị kịp thời. Vì thế ngay sau khi lên ngôi, Vua cho dựng đền thờ thần Đồng Cổ, coi vị Thần chủ chuyên bảo hộ cho Vua, phong là Thiên Hạ Minh Chủ thần.

Và cứ vào ngày 4/4 âm lịch hàng năm, toàn bộ hoàng gia và triều đình đều phải ra lễ đền, đọc lời thề: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, nếu trái lời thề, thần minh tru diệt". Lệ này đến đời Trần và đầu đời Lê vẫn còn tiếp tục. Đời Trần phong hiệu thêm là Thiên hạ Minh chủ Linh ứng Chiêu cảm Bảo hựu Đại vương.

Thề thì cứ thề, giết vua như Trần Thủ Độ ép Lý Huệ Tông tự tử, Hồ Quý Ly giết Trần Thuận Tông dã man, Lê Thái Tổ giết Trần Cảo, thì cứ làm. Ai mạnh hơn, thời cơ cho ai thì Thần cũng phải theo thôi.

Đền Đồng Cổ ngày nay ở phố Thuỵ Khuê, đã bị lấn chiếm rất nhiều. Một lạch nước đen sì chảy ngang qua, là dấu tích của sông Tô Lịch ngày xưa còn lại.

Toà phương đình phía trước điện thờ đang được tu sửa, sẽ treo tấm biển "Đồng Cổ linh từ"



Đền Hoằng Thánh
Có vị thần chủ trông coi cho ngôi vua rồi, năm 1037, Lý Thái Tông lại phong thần cho Phạm Cự Lượng làm vị thần chủ về hình ngục, xử án.

Phạm Cự Lượng làm tướng triều Đinh Tiên Hoàng, rồi theo Lê Đại Hành làm đến Thái Uý, đứng đầu các võ quan. Nay Lý Thái Tông phong làm Đô hộ phủ Ngục Tung Minh chủ Hoằng Thánh đại vương, lập đền ở phía nam hoàng thành để thờ cúng.

Đời Trần gia phong làm Hoằng Thánh Khuông quốc Trung vũ Tá trị Đại vương, đến đời Lê vì kiêng huý mà đổi thành Hồng Thánh. Ngày nay đền Hồng Thánh chính là đình Lương Sử. Như thế có thể đoán phía ấy xưa kia có nhà ngục của triều Lý.

Đình Lương Sử ngày nay, trên đề: Phạm Thái Uý linh từ, nguyên là đền thờ Thần Ngục.

Từ đời Lý Thái Tông trở đi, thỉnh thoảng đánh Chiêm Thành lại bắt người Chiêm mang về, trở thành nô lệ cho riêng vua. Từ đấy các công trình xây dựng thường có dấu tích Champa rất rõ. Con rồng đời Lý nổi tiếng cũng mang nhiều hình ảnh Champa. Phía Tây thành Thăng Long và bên kia sông Hồng trở thành chỗ người Chiêm sinh sống. Có điều giờ không còn gì cả, họ bị đồng hoá hết hoặc tuyệt diệt cả rồi chăng?


Đời Lý Thái Tông để lại một công trình mà người ta còn nhắc mãi đến ngày nay, đó là chùa Một Cột. Cái này thì người ta nói nhiều quá rồi, viết sơ qua chứ không lại nhàm.
Năm 1049, Lý Thái Tông nằm mơ thấy Quan Thế Âm dắt lên đài sen, cảm thấy điềm báo không tốt. Sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa hình đài sen để thờ Quan Âm, dựng chùa lớn để thờ Phật. Thế là chùa Diên Hựu (nghĩa là kéo dài sự phù hộ, kéo dài cõi phúc), và đài Liên Hoa được dựng. Đài Liên hoa chỉ là một bộ phận của chùa, nhưng giờ đây lại thường được gọi là chùa Một Cột.
Tương truyền rằng năm 1954, trước khi rút đi, quân Pháp nổ mìn phá huỷ đài Liên Hoa, và năm 1955 mới dựng lại như thấy ngày nay, nhỏ hơn nguyên bản một chút. Cây cột chính giữa đỡ đài làm bằng đá, phía trên toàn bộ bằng gỗ, lợp ngói, trong để tượng Quan Âm, chỉ một người quỳ là hết chỗ.
Ngôi "chùa" nguyên bản 850 tuổi (??) những năm 1900, và ngôi chùa hiện tại, mới 50 năm tuổi.
...

Cái ao mà đài Liên hoa nằm giữa gọi là hồ Linh Chiểu, nghĩa là cái ao tròn linh thiêng. Như thế xưa kia ao là tròn, không biết từ bao giờ mới làm thành hình vuông? Trong đời Lý chùa có quy mô lớn, với các tháp, lầu, toà ngang dọc. Nhưng rồi theo thời gian biến đổi, chẳng còn lại gì, ngoài đài Liên hoa và một nếp chùa nhỏ mà thôi.

Hai người phụ nữ với nón thúng quai thao, áo dài cổ bên "chùa Một Cột" những năm 1900:



( còn tiếp )
_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phim tài liệu Mùa đông 1991

Phim tài liệu Mùa đông 1991 Bộ phim tài liệu "Mùa đông năm 1991" phân tích về sự tan rã của Liên Xô - sự kiện được coi là “thảm họ...

Popular Posts