Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội
Tác giả Chitto - phuot.vn
Chuông Quy Điền
Thời Lý Nhân Tông, Thái hậu dựng
trên trăm ngôi chùa khắp nơi,
tại Thăng Long vua cũng
dựng thêm đến năm bảy ngôi chùa, lại
tu sửa và mở rộng chùa Diên Hựu,
dựng thêm các tháp, làm cầu, đào
hồ.
Thái hậu Ỷ Lan lại cho đúc quả chuông gọi
là Giác Thế Chung (chuông để thức tỉnh thế gian), nặng
1 vạn 2 nghìn cân (khoảng
6 tấn) để treo ở chùa Diên Hựu.
Nhưng do đúc không tốt
nên khi đánh chuông không kêu, có lẽ bị rạn
trong quá trình đúc. Chuông không treo lên nữa,
mà bỏ ở ruộng ngoài chùa, có nhiều
rùa sống tại đó nên gọi là chuông Quy Điền. Chuông trở thành Đại khí thứ hai của Đại Việt, làm sau cái thứ nhất
là Tháp Báo Thiên hơn 50 năm. Về sau giặc Minh đã phá huỷ chuông.
Về chuông Quy Điền,
dân gian lưu truyền câu truyện về Khổng Minh Không. Ông có phép lạ, sang Trung Quốc
xin đồng về đúc chuông, vua Tàu coi thường
bảo vào kho thích lấy bao nhiêu thì lấy.
Chẳng ngờ ông lấy tất cả đồng trong kho bỏ
vào cái đãy, lại lật ngửa nón tu lờ ra
để chèo qua sông, mang về đúc chuông. Khi chuông đánh
lên, tiếng vang tận
sang Tàu, ở cửa kho có con trâu vàng nghe tiếng
chuông liền vùng chạy
sang, chạy quanh Thăng
Long tạo thành sông Kim Ngưu, rồi không chịu rời đi.
Khổng Minh Không thấy
thế ném chuông xuống
hồ Tây, trâu vàng lao xuống theo, nên hồ cũng
có tên hồ Kim Ngưu.
Trâu vàng đang
ẩn náu nơi nào dưới đáy hồ này ???
Lý Thần
Tông và Từ Đạo Hạnh
Lý Nhân Tông trị vì
lâu, nhưng dù lập đến ba bà Hoàng hậu,
mà vẫn không có con, phải lấy
con trai của em ruột làm Thái tử. Vị
thái tử này lại liên quan đến một
câu chuyện huyền hoặc nữa tại đất Thăng Long.
Chuyện kể là ở làng Láng, sát ngoài thành Thăng
Long, có ông Từ Vinh, vì có hiềm
khích, Diên Thành hầu nhờ pháp sư Đại Điên dùng phép giết Từ
Vinh (lại là ông Đại Điên
trong giai thoại Nguyễn Bông muốn đầu
thai). Con trai Từ Vinh là Từ Đạo Hạnh quyết tâm đi học pháp thuật để
báo thù.
Từ Đạo Hạnh đi học theo Mật tông của Phật giáo, niệm
chú điều khiển chư thiên, đánh chết được Đại Điên. Trả thù xong, Từ Đạo Hạnh
quay về tu hành tại
Sài Sơn, dựng chùa Thiên Phúc (tức
là chùa Thầy ngày nay). Bấy
giờ Sùng Hiền hầu là em Lý Nhân Tông cũng
hiếm muộn, đến cầu con. Từ Đạo Hạnh bèn trút xác tại
hang Thánh Hoá ở Sài Sơn, đầu thai vào làm con trai Sùng Hiền hầu,
sau lên ngôi là Lý Thần Tông.
Bởi huyền tích này mà Lý Anh Tông, con của
Thần Tông cho xây lại chùa Chiêu Thiền (tức chùa Láng) tại nơi Từ Đạo Hạnh
tu đầu tiên, chùa Đản Cơ (tức chùa Nền) tại nền nhà Từ Vinh, chùa Thiên Phúc (chùa Thầy)
tại Sài Sơn. Ngày nay trong chùa Thầy vẫn
còn một toà sen đời
Lý, và hai cây cột gỗ được cho là có từ thời Từ Đạo Hạnh.
Trong chùa Láng thờ tượng Từ Đạo Hạnh và tượng Lý Thần Tông.
Điều tôi thấy thú vị nhất là hiện nay bên này Tô Lịch
có 2 chùa thờ Từ Đạo Hạnh là chùa Láng và chùa Nền,
thì bên kia sông Tô Lịch có chùa Duệ thờ Đại Điên !!! Đại Điên có công lao gì mà nghìn năm vẫn được
thờ phụng, thì tôi chưa tìm
hiểu được. Phải chăng đây là sự "cạnh tranh" tâm linh của
hai làng ở hai bên bờ
sông ???
Chùa Láng, cụ Võ
An Ninh chụp năm 1941
Lý triều
Quốc sư
Lý Thần Tông lên ngôi năm
11 tuổi, đến 20 tuổi thì bị bệnh, các thái y đều
bó tay. Sau có sư Nguyễn Minh Không (tên thật là Nguyễn
Chí Thành, người Ninh Bình) chữa được bệnh
cho vua, được phong là Quốc sư. Tuy nhiên vua cũng chỉ sống được đến 23 tuổi thôi, chính sử cũng
không ghi là bệnh gì. Do đó
Minh Không được tôn là vị
thánh chữa bệnh.
Theo truyền
thuyết thì khi trước Từ Đạo Hạnh,
Minh Không, Giác Hải ba người đi học đạo cùng nhau, Từ Đạo Hạnh đã hoá hổ để trêu hai người,
nên khi đầu thai làm Lý Thần
Tông thì cũng bị bệnh hoá hổ, lông lá mọc
ra, gào rống như hổ (lại chuyện hoá hổ và đầu thai !!!). Chỉ có
Minh Không là người đã từng học đạo cùng mới chữa được. Minh Không có nhiều
tài phép, được tôn là ông tổ
nghề đúc, và gắn với ông Khổng Minh Không trong truyền
thuyết chuông đồng
trâu vàng. Sau Minh Không còn được gắn với Không Lộ, tạo
thành một hình tượng vừa thiêng liêng vừa
hoà trộn lộn xộn khó phân biệt.
Có thể thấy triều Lý với thuyết Tam giáo Đồng
nguyên (ba tôn giáo là Nho - Phật - Đạo cùng được trọng) nên các truyền
thuyết đều hoà quyện.
Những người như Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Đại Điên
vừa được coi là các Thiền sư Phật
giáo, vừa là Pháp sư Đạo
giáo, lại có tước vị thế quyền Nho giáo.
Khi Minh Không mất,
rất nhều nơi từ Quảng Ninh đến Ninh Bình, Thái Bình đều
tôn thờ làm Thánh tổ của các ngôi chùa. Tại
Thăng Long, vua cho lập đền
thờ, gọi là đền Lý triều Quốc sư ngay cạnh chùa Báo Thiên. Sau đền
chuyển thành chùa, tức
là chùa Lý Quốc Sư trên phố Lý Quốc Sư bây giờ.
Ba pho tượng
Lý triều Tam Thánh Tổ
(sau tượng Phật), với Quốc sư Minh Không ngồi
giữa, hai bên là Từ Đạo Hạnh
và Giác Hải tại chùa Lý Quốc Sư.
Có hôm ngồi xem lại các ngôi chùa quanh Hà Nội,
tôi nhận thấy có bốn ngôi chùa đều rất cổ ở ngoài Thăng
Long, gần như chính xác bốn
phương Đông Tây Nam Bắc,
cách trung tâm Thăng Long khoảng
20km. Có thể coi đây như bốn ngôi Trấn Tự từ xa cho Thăng
Long chăng?
Đầu tiên, ở phía chính Đông của Thăng Long, là chùa Dâu (Pháp Vân) ngôi chùa cổ nhất
Việt Nam, được dựng từ thời Sĩ Nhiếp, thế kỉ 3. Nhiều lần các vua Lý, Trần,
Lê đều về đây rước tượng Pháp Vân về Thăng
Long để cầu mưa.
Ở phía chính Nam của Thăng Long, cách là chùa Đậu (Thành Đạo) cũng là ngôi chùa rất cổ, được dựng
cũng trong thời Sĩ Nhiếp, rất linh thiêng với
các lễ hội cầu đảo, và đến triều Lê thì có hai vị
Thiền sư để lại tượng Nhục thân nổi tiếng.
Ở phía chính Bắc của Thăng Long là chùa Non (Sóc Thiên Vương),
là chùa do Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu lập từ thế kỉ
10, tức là còn trước cả
khi có Thăng Long. Chùa nằm
ngay tại lưng ngọn núi mà Phù Đổng
Thiên Vương lên trời.
Khuông Việt đại sư là Quốc sư của ba triều: Đinh, Tiền Lê, Lý, cũng
là sư trụ trì chùa Khai Quốc.
Và cuối cùng, phía chính Tây của Thăng Long là chùa Thầy (Thiên Phúc), có muộn
nhất, thế kỉ 12, do Thiền sư Thánh
tổ Từ Đạo Hạnh dựng, nép vào chân núi Sài Sơn.
Bốn ngôi chùa này có lịch
sử ngắn thì 900 năm,
dài thì 1800 năm, đã ở đó như những chứng nhân, lúc hưng
thịnh, lúc suy tàn. Tất cả đều
không phải là nguyên bản,
nhưng vẫn mang cái hồn đó,
gắn liền với lịch sử thăng trầm, và có lẽ sẽ
cùng với Thăng Long trường
tồn.
Lý Anh Tông
Thần Tông mất quá trẻ, mới 23 tuổi, con mới 3 tuổi lên ngôi là Lý Anh Tông. Trong những năm đầu Thái hậu nhiếp chính, tình nhân của
Thái hậu cũng coi chính sự,
nhưng cũng không có ý làm phản.
Rồi đến khi Tô Hiến Thành nắm quyền, củng cố chính sự, chấn hưng lại đất nước.
Đến thời Anh Tông thì Trung Quốc mới
phong làm An Nam Quốc vương, trước đó chỉ chịu phong là Giao Chỉ Quận vương. Quốc vương là công nhận
là Vua một Quốc gia độc lập hoàn toàn, còn Quận vương
thì tức là vẫn cố tình coi là một
Quận thuộc Trung Quốc.
Tuy nhiên với Đại Việt thì cũng không quan trọng
vì độc lập tự chủ lâu rồi.
Lý Anh Tông là vua đã
cho lập đàn Nam Giao tại
phía Nam thành Thăng Long, cầu mưa và
cầu tạnh mưa cũng ở đó. Rồi hàng loạt
chùa chiền cũng được xây dựng tại Thăng Long, như chùa
Thắng Nghiêm Thánh Thọ, Bảo
Thiên, Trừng Minh, Quảng
Giáo, Quảng Hiếu, Phụng từ; nhưng đồng thời cũng có các quán của Đạo
giáo như Thái Thanh, Cảnh
Linh, Ngũ Nhạc !
Vua mở hội đèn
Quảng Chiếu cúng Phật trong 7 ngày đêm,
là hội lớn nhất thời bấy giờ. Hội đèn đó như thế nào không còn tài liệu
chi tiết, chỉ được ghi rất sơ sài tại văn bia chùa Đọi.
Gần đây một số người, nhất là bên Phật
giáo đang muốn phục dựng lại hội đèn này, tuy nhiên nếu
có làm thì đa phần cũng chỉ là “sáng tạo”
và dễ bị là “bịa ra” vì không có tư liệu
gì cả.
Bia chùa Long Đọi, tấm bia cổ đời Lý cuối cùng còn sót lại,
trong đó có nhiều ghi chép về Thăng
Long thời Lý Anh Tông.
Lý Cao
Tông
Lý Anh Tông là vị vua anh minh cuối cùng
của triều Lý. Con trai cả của vua
thì tồi bại nên bị phế làm dân
thường, con thứ hai được lập làm
vua, là Lý Cao Tông khi mới 3 tuổi. Tô
Hiến Thành mất đi rồi, vua
lớn lên không làm được gì
cho Đại Việt, chỉ chuyên chơi bời
hoang phí, xây dựng cung thất đền đài,
triều đình cũng suy đồi, nên trộm giặc nổi lên
khắp nơi.
Năm 1209, Lý Cao Tông bắt giam
vị tướng có công là Bỉnh Di,
bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân
đánh vào kinh thành để cứu chủ. Thật thảm hại là Thăng
Long thất thủ, vua
bỏ mặc vợ con chạy tuốt lên
mạn ngược, còn Hoàng hậu và
Thái tử chạy té xuống phía biển !!!
Sau 200 năm, lần đầu tiên Thăng Long rơi vào
tay họ khác.
Có lẽ Thăng Long đã yên bình quá lâu, lần cuối cùng
bị quân giặc đe doạ là quân
Tống cách cũng đã 130
năm, mà cũng chưa phạm đến gần kinh
đô, còn thì toàn giặc giã ở ngoài
biên, nên triều đình không thể phản ứng và
chống cự dù chỉ một cuộc tấn công
nhỏ. Vua thì hèn và bất tài
chỉ biết chạy.
Thái tử thì chạy về Hưng Hà,
Thái Bình, nương nhờ gia tộc họ Trần. Tại đây vị thái
tử mới 16 tuổi khi
gặp cô gái Trần Thị Dung đã lấy luôn
làm vợ, và từ bấy họ Trần bước vào
lịch sử Việt Nam. Anh ruột Trần Thị Dung
là Trần Tự Khánh và cậu là Tô Trung Từ mộ quân
về lấy lại Thăng Long, đưa Cao Tông về, nhưng khắp nơi đã loạn cả, mỗi địa phương có
các hào trưởng cát cứ đánh
nhau.
Cao Tông về Thăng Long chỉ được một năm thì
chết, truyền ngôi cho Thái tử, tức là Lý
Huệ Tông, vị vua
thứ 8 của triều Lý.
Lý Huệ
Tông
Lý Huệ Tông 17 tuổi
làm vua, không có quyền hành gì cả.
Vua không tin họ Trần, muốn nhờ thế lực khác diệt họ
này (nhưng vẫn yêu Trần Thị Dung hết sức), nên lại lần nữa bỏ chạy
khỏi Thăng
Long. Trần Tự Khánh là anh ruột
Trần Thị Dung đem quân vào Thăng
Long, đốt phá cung điện,
cướp sạch kho tàng, ngày càng mạnh
hơn, thậm chí lập một vua khác thay cho Huệ
Tông. Sau hơn 200 năm hưng thịnh, Thăng Long lần đầu bị đốt
phá tan hoang.
Huệ Tông chạy khắp nơi, nhờ các thế lực khác, nhưng
ai cũng thua họ Trần.
Bất đắc dĩ lại phải quay về nhờ vào họ này. Trần Tự Khánh phế vị
vua tạm kia đi, lại tôn Huệ Tông, Trần
Thị Dung thành Hoàng hậu.
Họ Trần chia nhau quyền lực
trong triều. Trần Tự Khánh chết
thì anh trai là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ nắm hết quyền bính.
Huệ Tông chỉ sinh 2 con gái, lại nửa tỉnh
nửa mê, năm 1224, vua 31 tuổi,
Trần Thủ Độ ép nhường ngôi cho con gái bé là công chúa Chiêu
Thánh, tức Lý Chiêu Hoàng, rồi phải vào chùa Bút Tháp mà tu. Nhưng
thỉnh thoảng Huệ Tông vẫn ra ngoài chùa, người
dân nhớ ơn nhà Lý nhìn thấy đi
theo khóc lóc. Thấy thế Thủ Độ đem vua vào chùa Chân Giáo không cho đi đâu
nữa. Năm sau (1225) Trần
Thủ Độ cướp ngôi nhà Lý, thì Lý Huệ
Tông vẫn còn đó.
Một ngày năm 1226, Trần
Thủ Độ vào thấy cựu hoàng nhà Lý, Thái thượng
hoàng Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ, bèn nói: Nhổ cỏ phải
nhổ cả rễ.
Huệ Tông bảo: Lời ngươi ta hiểu rồi, rồi thắt cổ mà chết, mới có 33 tuổi.
Tương truyền trước khi chết, Huệ Tông nguyền rằng: Thiên hạ của
nhà ta ngươi đã cướp rồi,
nay ngươi lại
còn ép ta chết, ngày sau con cháu ngươi cũng
sẽ bị như thế. Lời nguyền ấy về sau ứng nghiệm khi họ Hồ cướp ngôi và giết 2
vua họ Trần.
Chùa Bát Tháp ở phố Đội Cấn ngày nay, có người
cho là chính là chùa Bút Tháp đời Lý, có người
cho là chùa Chân Giáo. Vậy thì dù thế
nào, đây cũng có thể là nơi ghi dấu những ngày cuối đời của
ông vua bất hạnh nhất triều Lý.
Chùa Bát Tháp ngày nay, phải
chăng xưa kia sau vườn
chùa này Lý Huệ Tông đã thắt cổ tự tử ???
_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét