Thứ Tư, 16 tháng 5, 2018

Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội (P.7)

Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội

Tác giả Chitto - phuot.vn

Chiêm Thành 4 lần phá Thăng Long

Hết thời Dụ Tông u tối lại đến loạn Dương Nhật Lễ. Em trai vua lấy người con hát làm thiếp, khi đó người này đã có mang với một người họ Dương, sinh ra đứa con là Dương Nhật Lễ, ai cũng biết là không phải họ Trần. Thế mà bà Hoàng thái hậu lại nhất quyết lập đứa cháu nhận vơ để làm vua, để rồi bị chính Dương Nhật Lễ giết chết luôn ! Trần Nghệ Tông giành lại ngôi thì trong nước loạn rồi.

Nhân thấy nhà Trần loạn, năm 1371, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân ngược sông đánh vào Thăng Long. Vua Trần vội bỏ chạy. Quân Chiêm tha hồ cướp bóc của cải, bắt người, kho tàng cái gì cướp được thì cướp, không thì đốt sạch. Nhiều sách cổ, sổ sách của Đại Việt cũng ra tro.

Năm sau, vua Trần Duệ Tông đem quân đi rửa hận, mắc mưu Chế Bồng Nga, bị giết tại Đồ Bàn. Lần đầu tiên Đại Việt có một vị vua chết trận.

Thấy nhà Trần yếu lắm rồi, quân Chiêm liên tục tấn công, và đánh chiếm Thăng Long liên tiếp vào các năm 1377, 1378, 1388. Trong 17 năm mà Thăng Long thất thủ và bị cướp đến 4 lần, vua Trần chỉ lo mang của cải đi chôn dấu và bỏ chạy, làm hổ mặt là hậu duệ của Đức Thánh Trần.

Thế là sau 3 lần thất thủ trước quân Nguyên Mông hùng mạnh từ phía Bắc, 80 năm sau, Thăng Long lại 4 lần thất thủ trước quân Chiêm Thành từ phía Nam. Dường như là điềm báo cho thời kỳ đen tối nhất của Thăng Long sắp đến.

Cái con rồng đời Trần đầy vẻ thoả mãn này sắp giãy chết...


Thăng Long thành Đông Đô

Trần Nghệ Tông u tối, đem cơ nghiệp đặt cả vào tay người anh họ ngoại là Hồ Quý Ly, lại gả bà chị ruột nữa.

Hồ Quý Ly xây thành Tây Giai ở Thanh Hoá, gọi là Tây Đô, năm 1396, dời cả triều đình về đó. Thăng Long mang tên là Đông Đô, nhưng không còn là kinh đô nữa. Năm 1400, Quý Ly phế ông vua triều Trần cuối cùng (cũng là cháu ngoại mình), lên làm vua. Trong thời thuộc Minh, có hai vị tôn thất nổi dậy xưng đế, nhưng không giành được độc lập, cho nên coi như nhà Trần kết thúc năm 1400 này.

Nhà Trần kết thúc sau 175 năm với 12 đời vua, trong đó chỉ có 2 vua được đặt tên phố tại Hà Nội ngày nay, là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. (năm 2010 đặt thêm phố Trần Thái Tông)

Các danh nhân họ Trần dười triều Trần có tên phố: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư, Trần khát Chân.

Các danh nhân khác: Chu Văn An, Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh Chi, Đặng Dung, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Trương Hán Siêu, Hàn Thuyên, Nguyễn Biểu.

Truyền thuyết Hồ Quý Ly

Có một truyền thuyết về Hồ Quý Ly, rằng khi còn hàn vi, có lần ông đọc được trên bờ sông dòng chữ ai đó viết trên bờ cát "Quảng Hàn cung lý nhất chi mai" (Cung Quảng Hàn có một cành mai), thấy hay nên nhớ trong lòng.

Đến khi làm quan nhà Trần, một lần theo vua Trần đi chơi điện Thanh Thử, vua thấy có nhiều gốc quế đẹp quá, ra câu đối: "Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế" (Điện Thanh Thử phía trước có nghìn cây quế), Hồ Quý Ly bỗng nhớ câu thuở xưa trên bờ cát, đối lại, thành ra một đôi câu đối rất hoàn chỉnh:

Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng Hàn cung lý nhất chi mai


Điều đặc biệt là vua Trần có cô công chúa tên là Nhất Chi Mai rất được yêu chiều, sống tại một cung mà vua thường hay gọi là Quảng Hàn (cũng là tên cung của Hằng Nga trên cung Trăng). Vua hỏi sao nghĩ ra câu đó thì Hồ Quý Ly cứ thành thực mà trả lời. Vua cho rằng có duyên nên gả công chúa Nhất Chi Mai cho Hồ Quý Ly, từ đó ông ngày càng vinh hiển.

Câu truyện trên là một truyền thuyết đẹp, tuy nhiên điện Thanh Thử ở đâu, cung Quảng Hàn là cung nào, công chúa Nhất Chi Mai là ai thì trên thực tế không rõ ràng.

Sự thực lịch sử là Hồ Quý Ly có hai bà cô đều làm phi của vua Minh Tông, một bà sinh ra vua Nghệ Tông, một bà sinh ra vua Duệ Tông. Nghệ Tông có bà chị là công chúa Huy Ninh, goá chồng, nên vua làm mai cho Hồ Quý Ly luôn, thành ra Hồ Quý Ly vừa là anh đằng mẹ, vừa là anh rể. Rồi lại cưới con gái Hồ Quý Ly cho con trai vua, thành ra lại còn là thông gia. Lằng nhằng thế nên quyền về tay Quý Ly hết.

Vị vua cuối cùng triều Trần bị Hồ Quý Ly phế bỏ cũng chính là cháu gọi ông ta bằng ông ngoại.

Thăng Long thương đau

Họ Hồ dời đô vào thành Tây Đô, và giặc Minh sang xâm lược, năm 1407 Thăng Long thất thủ, Hồ Quý Ly bị bắt sang Tàu, đi đày làm lính, gia tộc họ Hồ và quan lại bị bắt về Minh. Đại Việt mất về tay giặc Minh.

Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên bị Tàu bắt, lại sợ chết không dám tự tử, chịu nhục nhã để sống đời lao dịch ở Tàu. Hai con của ông thì đi theo làm quan cho Tàu.

Hồ Nguyên Trừng nổi tiếng về chế tạo súng thần công nên nhà Minh trọng dụng. Người ta vẫn ca ngợi đó trí tuệ người Việt, riêng tôi thấy chả hay ho chút nào. Trí tuệ đó không giúp nước, giúp vua cha, mà sau lại đi giúp quân giặc, làm quan cho giặc. Bao nhiêu khẩu súng thần công nhà Minh chĩa bắn vào người dân Việt đều có phần của Nguyên Trừng đó !!!

Trong thời loạn, có hai tôn thất nhà Trần nổi lên làm vua, xưng đế là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Trần Ngỗi thì bị giêt trong chiến trận, còn Trần Quý Khoáng bị giặc bắt giải về Bắc, đã nhảy xuống biển tự tử, chứ không chịu nhục như Hồ Quý Ly để cầu sống. Các tướng lĩnh của ông cũng oanh liệt tử tiết chứ không chịu nhục để bị giải về Tàu. Con cháu nhà Trần như thế vẫn còn giữ được khí tiết oai hùng của cha ông.

Từ đây bắt đầu giai đoạn 20 năm đau thương khi giặc Minh đô hộ Đại Việt, trị sở đóng tại Thăng Long, nhưng bị đổi thành Đông Quan.

Con rồng triều Hồ, một con rồng đã mất đầu. Cái oai của nó chỉ còn nằm khoe với ruộng lúa mà thôi. Cái tội để cho đất nước rơi vào tay giặc, đều được quy cho Hồ Quý Ly, vì quá tham quyền vị mà để mất lòng dân, làm tan tác tinh thần đoàn kết của người Việt.


Hoàn Kiếm

Năm 1428, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi sau khi vị vua giả tạm là Trần Cảo đã (bị bức) chết. Công của nhà Lê giành lại giang sơn người dân Việt không bao giờ quên, kể cả sau này khi con cháu họ Lê suy đồi thì người dân vẫn vì ơn trước mà luôn ủng hộ.

Truyền thuyết ý nghĩa nhất về Lê Lợi là huyền thoại trả gươm, mà mỗi người dân Việt đều biết. Dưới thời Lý Trần, khu vực Đông của Thăng Long không được chú trọng nhiều, và hồ nước ở đó gọi là hồ Lục Thuỷ, thông với sông Hồng. Hồ có tên đó do màu nước xanh đặc biệt. Vua Lê đi thuyền từ sông Hồng có thể vào hồ, từ đây lên chùa Báo Thiên. Tại đây Lê Lợi đã trả lại gươm thần Thuận Thiên cho rùa vàng, gửi lại Long Quân. Từ đó hồ có tên là Hoàn Kiếm.

Trong hầu hết tài liệu ghi nguồn gốc tên hồ đều viết: "Sau đó hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm", điều này không phù hợp, bởi cái tên hồ Tả Vọng mãi đến mấy trăm năm sau Lê Lợi mới có !

Cũng không rõ truyền thuyết trên xuất hiện ngay sau khi Lê Lợi lên ngôi hay không, vì sử sách đời Lê vẫn ghi tên hồ là Lục Thuỷ, hoặc Thuỷ Quân, sau đời Chúa Trịnh lại có tên là Tả Vọng, chứ không ghi tên Hoàn Kiếm. Có vẻ như cái tên Hoàn Kiếm được trở thành phổ biến và chính thức từ cuối Lê đầu Nguyễn.

Ngày nay, bên phía Tây hồ Hoàn Kiếm, phố Lê Thái Tổ, có đền thờ Lê Lợi, và bức tượng đồng của vua đứng cầm gươm chĩa xuống hồ, đứng trên một cây cột đá. Tượng được dựng năm 1888, cây cột được làm theo kiểu phương Tây. Không nhiều người để ý đến di tích này.


Điện Kính Thiên

Triều Lê tiếp quản một Đông Quan đổ nát, được gọi lại là Đông Đô, nhưng vẫn song song với tên Thăng Long.

Hàng chục ngôi chùa, đền, đạo quán triều Lý Trần được nhắc đến trong sử, từ đời Lê về sau không còn thấy tên nữa, có lẽ đã bị phá huỷ hết rồi. Những chùa như Chân Giáo, Đại Giáo, Hưng Thiên, Vạn Tuế, Thiên Quang, Thiên Ðức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Thọ, Linh Quang, Sùng Nghi, Tư Thánh, Thiên Minh, Thiên Thành, các đạo quán Thái Thanh, Cảnh Linh, Linh Tiên, Ngũ Nhạc... đều mất dấu.

Ngọn tháp Báo Thiên bị phá đổ rồi, nhưng chùa vẫn còn, vẫn là chùa lớn nhất Thăng Long.

Hoàng cung cũng tan hoang. Vì vậy triều Lê phải dựng lại gần như toàn bộ. Tại nơi trung tâm, thiêng liêng nhất của Thăng Long, khi xưa là điện Càn Nguyên đời Lý, sau đổi là Thiên An, cũng bị phá huỷ. Lê Thái Tổ đã dựng lại điện chính của triều đình tại đây, đổi là điện Kính Thiên, là toà điện quan trọng nhất của Hoàng cung.

Chín bậc đá thềm điện Kính Thiên đời Lê, trải hơn năm trăm năm biến đổi...
(So với thềm điện Thái Hoà ở Huế sau này, bậc thềm này đẹp hơn rất nhiều. Thăng Long cũng không sử dụng những tên gọi rập khuôn bắt chước y sì Trung Quốc kiểu Ngọ môn, Ngũ Phụng, Thái Hoà như triều Nguyến dùng ở Huế)


Con rồng đời Lê

Con rồng đầu đời Lê đầy sức mạnh, hùng dũng oai hùng, thể hiện khí phách của một thuở Bình Ngô !

Phía sau đầu rồng vẫn là lớp bờm dài uốn sóng giống triều Lý, Trần, Hồ, chân cuộn cơ bắp, sừng dài uy lực. Những con rồng đẹp mạnh mẽ thế này về sau không còn nữa. Rồng đời sau mang đầy vẻ tròn trịa hiền hoà, và càng ngày càng giống rồng Trung Quốc. Đặc biệt rồng đời Nguyễn thì y hệt rồng Tàu, không còn mang được dáng vẻ nào riêng cả.

(Chòm râu dưới cằm rồng được chân trước nắm chặt, nay đã bị vỡ mất)

Đoan Môn

Hoàng thành thời Lê chia làm ba khu chính: Khu phía Đông làm Thái Miếu và Đông cung (cho Thái tử ở), ở giữa thì phía Nam là khu dành cho các toà trụ sở các Bộ, nơi tổ chức thi Đình, làm các lễ mang tính cộng đồng. Khu phía trong là Chính điện và nơi ở của Hoàng gia.

Giữa khu ngoài và khu trong là cửa lớn Đoan Môn, Đoan nghĩa là Chính giữa, chính thống. Cửa này xây đời Lê, bên dưới toàn bằng đá, trổ 5 cửa. Cửa giữa cho vua, hai bên cho quan và hoàng tộc, hai bên nữa cho lính, bên trên có lầu. Cửa hình chữ U, với hai cánh quay vào trong phía điện Kính Thiên.

Triều Nguyễn, gần 400 năm sau cũng làm Ngọ Môn theo kiến trúc tương tự, nhưng với kích thước lớn hơn, sử dụng chủ yếu là gạch, và hướng của hai cánh hai bên quay ra ngoài. Lúc đầu cửa ở Huế cũng gọi là Đoan Môn, sau đó mới đổi là Ngọ Môn cho nó ... giống Tàu. Cửa Đoan Môn ở Thăng Long chỉ là cửa nằm giữa, phân tách nửa ngoài Hoàng thành với Cấm thành, còn cửa Ngọ Môn ở Huế là cửa vào Hoàng thành.

Vì Đoan Môn nằm giữa Hoàng thành, nên từ trên có thể nhìn bao quát cả Hoàng thành, với các cơ quan ở phía Nam, Thái Miếu phía Đông, Cấm thành phía Bắc.

Góc chụp này quá hẹp do bên trái có cái nhà của quân đội choán mất. Nay cái nhà ấy đang được phá đi, hi vọng sửa sang xong, có thể thoải mái chụp trực diện.


Chùa Huy Văn

Trong các ngôi chùa ở Thăng Long, chùa Huy Văn chỉ là chùa nhỏ nhưng lại có ý nghĩa rất đặc biệt, là nơi ra đời của vị vua được coi là văn võ toàn tài bậc nhất Việt Nam.

Lê Thái Tổ mất rồi, con là Thái Tông nối ngôi, khi 16 tuổi đã có con trai đầu, năm sau có con thứ hai, và năm 19 tuổi thì bà phi Ngọc Dao có mang. Cùng lúc đó bà phi được sủng ái là Nguyễn Thị Anh cũng có mang, dèm với vua xin đem bà Ngọc Dao giết đi. May nhờ Nguyễn Trãi xin giúp mới đổi từ án tử sang bị giam ở chùa Huy Văn. Tại đây, bà Ngọc Dao đã sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành năm 1442.

Thái Tông mất khi 20 tuổi tại Lệ Chi Viên, trở thành vụ thảm án oan khốc nhất lịch sử, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Vua Nhân Tông nối ngôi, rồi lại bị anh cả giết chết. Các đại thần lại giết luôn ông vua mới cướp ngôi, mà đưa Lê Tư Thành lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.

(Lê Thánh Tông giết nốt ông anh trai còn lại, thế là 3/4 con trai của Thái Tông đều bị giết; bản thân Thái Tông cũng đã từng giam anh ruột đến chết, mà chính Thái Tông cũng chết mờ ám, có thể do bị giết. Những vua đầu triều Lê tàn hại nhau như thế...).

Lê Thánh Tông lên ngôi rồi, nhớ đến nơi mình sinh ra là chùa Huy Văn, nên cho dựng điện Dục Khánh ở đó. Sau bà Ngọc Dao mất thì chuyển điện thành đền thờ bà.

Trong chùa ngày nay thờ cả Lê Thái Tông, hoàng hậu vợ Lê Thái Tổ (mẹ Thái Tông, bà nội Thánh Tông), Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ.

Ngày nay điện Dục Khánh chùa Huy Văn thờ vua Thánh Tông, bà Thái hậu Ngọc Dao, và bà hoàng hậu Trường Lạc. Pho tượng Lê Thánh Tông này cũng có lai lịch chìm nổi, nguyên là ở chùa Khán Sơn trên Khán Sơn, đến đời Tây Sơn thì chùa này bị phá nên mới đem về chùa Huy Văn để thờ. Tượng Thái hậu Quang Thục (tức bà Ngọc Dao) trước để ở chính giữa điện, đến lúc đó lại để sang bên cạnh.


Chùa Ngọc Hồ

Lê Thánh Tông không chỉ là vị vua văn võ toàn tài, mà còn là bậc quân tử đa tình, đã được gặp tiên.

Truyện rằng ở phía Nam hoàng thành, gần Quốc Tử Giám có chùa Ngọc Hồ là ngôi chùa đẹp, Lê Thánh Tông ngự thăm chùa. Tại đây vua gặp một người đẹp ngâm thơ, cùng đối thơ xướng hoạ, rất lấy làm hợp ý. Vua muốn đón nàng về cung, nhưng khi kiệu đi đến Cửa Nam thì cô gái biến mất. Lúc bấy giờ mới biết là gặp tiên nữ, vùa bèn cho xây một cái lầu ngoài Cửa Nam, gọi là lầu Vọng Tiên để trông ngóng.

Lầu Vọng Tiên đã bị phá lâu rồi, nhưng chùa Ngọc Hồ ngày nay vẫn còn đó, trên phố Sinh Từ (Nguyễn Khuyến). Khuôn viên đã bị thu hẹp rất nhiều, cảnh trí khác xưa nhiều lắm, nhưng vẫn còn đó câu truyện vua gặp tiên, rồi sau đó là truyện Tú Uyên gặp tiên...

Bích Câu đạo quán

Lê Thánh Tông không phải là người duy nhất gặp tiên ở chùa Ngọc Hồ, mà còn có chàng thư sinh Tú Uyên.

Truyện "Bích Câu kỳ ngộ" kể rằng chàng tú tài tên là Trần Uyên, nên thường gọi là Tú Uyên, văn thơ tao nhã, một lần ra chơi chùa Ngọc Hồ, ngồi nghỉ dưới gốc cây bỗng có chiếc lá đề thơ bay ngang mặt, vội nhặt lên xem, đồng thời nhìn ra thấy có người con gái rất đẹp. Tú Uyên làm quen, nói chuyện văn thơ với cô gái, đi đến tận lầu Quảng Văn thì cô gái biến mất. Tú Uyên về nhà sinh ốm tương tư.

Chàng đến đền Bạch Mã cầu xin, đêm nằm thấy thần bảo sáng ra chợ Cầu Đông mà tìm. Hôm sau ra chợ Cầu Đông, gặp ông già bán tranh, bức tranh Tố nữ vẽ y hệt người đẹp đã gặp, bèn mua về treo trong nhà, ngày ngày trò chuyện, mời cơm. Thế rồi mấy hôm sau về thấy cơm canh đã sẵn, chàng rình thì thấy cô gái từ trong tranh bước ra. Tú Uyên giữ lại, xé tranh đi, hỏi tên thì là tiên Giáng Kiều, hai người nên vợ chồng.

Nhưng có vợ rồi Tú Uyên đâm ra bê tha, chỉ thích rượu chè đàn hát. Giáng Kiều khóc rồi bay về trời. Tú Uyên hối hận đau khổ, định tự tử nên Giáng Kiều quay lại, rồi dạy chồng cách tu tiên. Về sau hai người cưỡi hạc bay về trời.

Nền nhà cũ của Tú Uyên khi xưa, ngày nay thành Bích Câu Đạo quán, là một trong hai ngôi Đạo quán của Thăng Long xưa còn giữ nguyên được, không bị đổi thành chùa.

Bích Câu đạo quán trên phố Cát Linh, xung quanh đã bị lấn chiếm làm nơi buôn bán.

Đền Kim Liên

Sau thời Lê Thánh Tông rực rỡ, nhà Lê suy đồi nhanh chóng. Lê Uy Mục lên ngôi liền giết ngay bà nội (là vợ Lê Thánh Tông), làm nhiều điều bạo ngược, đến nỗi bị gọi là Vua quỷ.

Lê Oanh đem quân về giết Uy Mục, tự lên làm vua tức là Lê Tương Dực, bị gọi là Vua Lợn, tham tàn chả kém vua trước. Trong sử ghi rằng Tương Dực cho làm lại thành Thăng Long, đắp thành chắn cả sông Tô Lịch, dựng tòa Cửu trùng đài hùng vĩ, sai Vũ Như Tô làm điện trăm nóc, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, dân tình kêu than.

Do đó khắp nơi lại nổi loạn, quan ngay trong triều giết Tương Dực (khi đó mới 24 tuổi), Thăng Long đại loạn, cướp phá khắp nơi. Của cải triều Lê tích trữ trong trăm năm bị cướp sạch. Chỉ vài năm sau, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dựng lên nhà Mạc.

Tương truyền Lê Tương Dực khi khởi quân đánh Uy Mục, nằm mộng thấy thần Cao Sơn hứa phù trợ, nên sau khi lên ngôi cho dựng ngôi đền thờ ở phía Nam thành Thăng Long, tức là đền Kim Liên ngày nay (dựng mới hay trên nền ngôi miếu nhỏ cũ của làng thì cũng chưa rõ). Đến lúc này ngôi đền "trấn Nam" của Thăng Long mới được xuất hiện trong sử sách.

Tuy nhiên trong các bản đồ Thăng Long thời Trịnh sau cũng không thấy vẽ đền này, chứng tỏ cũng không phải là quan trọng. Cho nên cái thuyết "Tứ Trấn Thăng Long" có lẽ còn xuất hiện muộn nữa, có khi phải từ cuối Lê đầu Nguyễn mới có.

Đền Trấn Nam - Kim Liên, mới có từ đời Lê Tương Dực (1510)


( còn tiếp )
_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phim tài liệu Mùa đông 1991

Phim tài liệu Mùa đông 1991 Bộ phim tài liệu "Mùa đông năm 1991" phân tích về sự tan rã của Liên Xô - sự kiện được coi là “thảm họ...

Popular Posts