Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội
Tác giả Chitto - phuot.vn
Phủ Chúa
Lúc này tại Thăng Long, bên cạnh Hoàng thành, một
công trình to lớn nữa được dựng lên, là Phủ chúa Trịnh. Hoàng thành vốn rộng lớn nhưng không được tu sửa,
vì vua chỉ ngồi làm bù nhìn, làm gì có quyền, có tiền mà sửa sang xây cất.
Trong khi đó Phủ chúa thì ngày càng được xây dựng to đẹp, xa hoa đẹp đẽ.
Phủ chúa Trịnh nằm sát phía dưới hồ Gươm, từ cửa
phủ nhìn ra hồ Gươm nằm ở bên trái, nên được gọi là hồ Tả Vọng. Quanh hồ, chúa Trịnh cho dựng nhiều công trình để
vui chơi, duyệt binh, ngắm cảnh.
Sau này khi họ Trịnh sụp, Lê Chiêu Thống đã đốt sạch
Phủ chúa, cháy trong 3 ngày mới tắt, cả khu đất trở thành hoang phế, điêu tàn,
rồi người Pháp mới dựng các khu phố Pháp ở đây. Phủ chúa có lẽ nằm ở khu các đường
Tràng Thi đến Nguyễn Du ngày nay.
Phủ chúa Trịnh trong bản đồ cổ
Các phố mang chữ Hàng
Diện mạo ngày nay ta còn biết về Thăng Long chủ yếu
là từ đời Lê. Hầu hết các con phố cổ ngày nay còn tên được đặt từ thời này.
Thời Lý, Trần, khu mua bán sầm uất của Thăng Long
nằm ở phía Tây, bên dưới hồ Tây, tức là ở khu Thụy Khuê, Hoàng Hoa Thám ngày
nay, dân cư cũng tập trung ở đó. Phía Đông của Thăng Long còn rất thưa thớt.
Nhưng sau thời Minh đô hộ, khu thị dân đó điêu
tàn. Đến khi triều Lê giành lại giang sơn, thì hàng chục làng nghề khắp đất nước
tụ hội về phía Đông của hoàng thành, tạo nên khu phố cổ, với hàng chục phố mang chữ "Hàng" rất nổi tiếng, đa số còn giữ được đến nay.
Các phố mang chữ Hàng còn trải rộng ra khắp khu vực Thăng Long, chứ không chỉ tập
trung ở khu phố cổ quận Hoàn Kiếm.
Một số phố Hàng ở phía Nam, nay đã bị đổi tên:
- Phố Hàng Cỏ (nay là Lê Duẩn): nơi cung cấp cỏ
cho voi ngựa
- Phố Hàng Lọng (khúc trên Lê Duẩn):
- Phố Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng)
- Phố Hàng Cơm (nay là Quốc Tử Giám): nơi có nhiều
hàng cơm bán cho sĩ tử học tại Quốc Tử Giám
- Phố Hàng Cháo (nay là ngõ Hàng Cháo): cháo nấu từ
bột. Bột, Cơm, Cháo đứng gần nhau một cụm
- Phố Hàng Đẫy (nay là đoạn Nguyễn Thái Học gần Trịnh
Hoài Đức)
...
Một số đường phố đời Lê vẫn còn giữ được tên đến
nay như phố Thợ Nhuộm nơi có nhiều thợ nhuộm vải, phố Khâm Thiên nơi đặt Khâm
Thiên giám.
Chùa Trấn Quốc và đê Cố Ngự
Chùa Khai Quốc xưa dựng từ thời Lý Nam Đế ngoài bãi sông Hồng,
đến đời Lê Thái Tông đổi tên là chùa An Quốc. Năm 1615, bãi sông lở, nên dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng giữa
hồ Tây, đổi tên là chùa Trấn Quốc.
Hòn đảo này xưa kia các vua Lý, Trần đều dựng cung
điện để nghỉ ngơi vui chơi, nằm chơi vơi giữa mặt nước mênh mông, bình minh
hoàng hôn đều tuyệt đẹp. Nay dời chùa vào đảo, mặt chính chùa quay sang phía
Tây, hướng về đất Phật, khi ra chùa phải đi bằng thuyền, cập bến rồi đi lên lễ
Phật.
Khoảng năm 1620, để giữ cá ở góc Đông của hồ Tây,
dân quanh vùng đắp một con trạch bằng đất ngăn góc hồ lại. Chúa Trịnh thấy thế
liền cho đắp con trạch nhỏ đó thành con đê có thể đi ngựa xe được để đi chơi,
thành ra con đường Cố Ngự (Cố = con đê, ngự = ngăn ra, chia ra). Con
đê này đi gần qua đảo có chùa Trấn Quốc, nên đắp luôn con đường nhỏ nối ra, để
không phải đi thuyền. Có điều con đường lại từ phía sau chùa, cho nên làm vòng
ra phía trước, xây tường bịt phía sau.
Về sau, đường Cố Ngự bị đọc chệch thành Cổ Ngư, và là đường Thanh Niên ngày nay. Đường vào chùa
Trấn Quốc trước kia vòng ra mặt trước, nay cũng bị sửa thành ra chui vào phía
sau, mất đi nguyên bản.
Chùa Trấn Quốc trên đảo Cá Vàng, tu sửa đời Lê
Con đê Cố Ngự phía bên phải, hòn đảo bên trái là phường Ngũ Xã, ảnh từ trăm năm trước
Những dấu tích vui chơi của chúa Trịnh vẫn còn lại đến nay
qua các địa danh.
Con đường ở phía Tây thành Thăng Long, xưa gọi là
Tây Giai (Tây Nhai), lúc này chúa Trịnh cho trồng toàn liễu, nên gọi là Liễu
Giai.
Ở phía Đông, một con đường khác được trồng toàn
cây hòe, nên gọi là Hòe Giai (Hòe Nhai).
Sát bờ hồ Tây, chúa cho trồng toàn bàng, để khi
mùa đông sang, lá bàng đỏ rực trong ánh hoàng hôn, mùa xuân xanh non trong nắng
sớm, là cảnh đẹp tuyệt vời.
Trong khu vườn thượng uyển cũ phía Tây, đắp lại gò
đất, trồng nhiều cây Sưa để mùa xuân ra hoa trắng, nên gọi là Sưa sơn.
Nay các rặng liễu, hòe, bàng đều không còn, nhưng
tên Liễu Giai, Hòe Nhai vẫn còn đó. Núi Sưa nay nằm trong Bách Thảo. Các gốc
sưa từ thời đó cũng đã mất, nhưng vẫn có vài cây trồng sau này. Ngọn núi Sưa đó
về sau lại bị gọi nhầm là núi Nùng.
Thờ Mẫu
Dưới triều Lê, một hệ thống tín ngưỡng mới phát
triển, là tín ngưỡng thờ Mẫu. Dù truyền thống tôn thờ các vị nữ thần đã có từ
rất xa xưa, với việc thờ các nữ thần mưa Tứ Pháp, các nữ thần núi non như Quốc
mẫu Tây Thiên, Hậu thổ phu nhân, Tổ mẫu Âu Cơ,... tuy nhiên đến đầu thời Lê mới
chính thức thành điện thờ Mẫu.
Bắt đầu từ Nam Định, với huyền thoại Mẫu Liễu Hạnh, tín ngưỡng thờ Mẫu nhanh chóng lan rộng khắp đất
nước, hệ thống hoá thành Tam toà Tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh,
Minh Không trong Tứ Bất tử, và có nhiều huyền thoại ở khắp nơi.
Tại Thăng Long, phố Hàng Trống trở thành nơi tạo
tác một dòng tranh thờ tín ngưỡng Mẫu. Tranh thờ Hàng Trống khác với
tranh dân gian Đông Hồ, vì chuyên về các nhân vật thần thánh trong Đạo giáo và
thờ Mẫu, màu sắc cũng sặc sỡ hơn, nhiều chi tiết cầu kì hơn.
Một bức tranh thờ Hàng Trống, theo trật tự từ trên xuống:
- Trên cùng là Phật bà Quan Âm, với Kim đồng, Ngọc
nữ hầu hai bên
- Tứ Đế của Đạo giáo, bốn vị Đế ở bốn phương
- Tam toà Thánh Mẫu: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng
Ngàn, Mẫu Thoải
- Năm vị Quan lớn
- Bốn vị Chầu Bà
- Mười hai chầu
Phủ Tây Hồ
Khi nhà Lê Trung Hưng cùng họ Trịnh giành lại được
Thăng Long từ nhà Mạc, triều Lê phái trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan sang sứ Trung Quốc.
Giai thoại kể rằng khi trở về từ Trung Quốc, vào
khoảng những năm 1598, Phùng Khắc Khoan đã gặp tiên tại Lạng Sơn, mà vị tiên đó
chính là Thánh mẫu Liễu Hạnh. Ông bèn cho xây ngôi đền thờ Mẫu tại Lạng Sơn,
nay chính là chùa Tiên.
Sau đó, khi về Thăng Long rồi, trong một chuyến du
hành chơi vòng quanh hồ Tây, tại một quán nước bên bờ hồ, ông đã gặp lại Tiên
chúa Liễu Hạnh, dưới hình dáng người con gái bán nước xinh đẹp. Hai bên làm thơ
xướng hoạ rất tương đắc. Mấy hôm sau trạng Bùng quay lại thì không còn gặp ai nữa,
nên lập một am nhỏ để tưởng nhớ.
Nơi trạng Bùng gặp Mẫu Liễu Hạnh, được dựng lên
thành một ngôi đền thờ lớn, gọi là Phủ Tây Hồ, là nơi thờ Mẫu sớm nhất ở Thăng Long. Ngày nay
đây là nơi thờ Mẫu lớn nhất của Hà Nội, cũng là nơi linh thiêng bậc nhất.
Người phuơng Tây
Khu phố buôn bán ở Thăng Long không chỉ có các
thương nhân, thợ thủ công người Việt, mà còn có các thương nhân người Hoa, người
Mã lai, và đặc biệt người phương Tây.
Những thương nhân phương Tây đầu tiên đến Thăng
Long là người Hà Lan, sau khi đã giao thương ở phố Hiến. Họ mang đến các sản phẩm
phương Tây, thuốc súng, đồng hồ,... và mua hương liệu, đồ sứ, tơ lụa. Khi đó
người Hà Lan chiếm được đảo Đài Loan, từ đó toả ra khắp vùng. Họ giao thương với
cả chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Sau này chúa Nguyễn gây
khó khăn, nên người Hà Lan giao thương với Thăng Long nhiều hơn.
Khi đó người phương Tây đều được gọi chung là người
Tây Dương.
Đỉnh cao của sự giao lưu với người Hà Lan, đó là
khi vua Lê Thần Tông lấy một bà vợ người Hà Lan ! Tài liệu ghi rằng người phụ nữ
đó là con của vị Phó quan của Hà Lan ở Đài Loan với vợ người Triều Tiên, cô gái
tên là Orona. Tuy nhiên cũng không có thông tin gì thêm về bà
vợ ngoại quốc này của vua. Đó là vị vua Việt đầu tiên lấy vợ phương Tây (sau
này còn mấy vua nhà Nguyễn nữa). Nhưng đó cũng không phải là bà vợ nước ngoài
duy nhất của Lê Thần Tông, vì ông còn có 1 bà người Thái, 2 bà người Hoa nữa.
Tượng vua Lê Thần Tông và hai trong số nhiều bà vợ
của vua, tại Thanh Hoá. Đây là ảnh sưu tầm.
Chùa Bộc
Quanh khu vực Đống Đa, còn nhiều di tích của Chiến
thắng Kỷ Dậu.
Chùa Bộc, vốn tên là Sùng Phúc, dựng từ đời Lê, nằm ngay
trong khu vực chiến sự ác liệt, nên bị đốt cháy hoàn toàn. Sau đó vua Quang
Trung cho dựng lại chùa, làm nơi cúng tế các vong hồn quân Thanh cũng như quân
Việt đã chết trận. Lại vì Sầm Nghi Đống treo cổ tự tử gần đó, cũng được coi là
một người có nghĩa khí, nên Quang Trung cho cúng tế luôn tại chùa. Cái tên chùa
"Bộc" cũng mang nghĩa là phơi ra, bày ra, có từ sau khi dân gian thấy
xác giặc chết phơi khắp nơi quanh chùa.
Bên cạnh chùa Bộc có hồ rộng, là nơi sau khi chiến
thắng, Quang Trung cho voi xuống tắm, nên gọi là hồ Tắm tượng. Giờ đây hồ chỉ
còn là một ao nhỏ, vẫn gọi là ao Tắm tượng. Trong chùa còn có tượng thờ lén Quang Trung, sẽ
nói sau.
Ao Tắm tượng trong chùa Bộc ngày nay
Chùa Đồng Quang
Một ngôi chùa Bộc cúng tế cho các vong hồn xem ra
không đủ, vì số người chết nhiều quá.
Sau này, đối diện gò Đống Đa, người dân dựng thêm
một ngôi chùa nữa, là chùa Đồng Quang, để thờ cúng tất cả các vong hồn của các thi thể
tìm được rải rác khắp nơi quanh đó. Trong chùa dựng một khu đàn tế riêng để
cúng tế vong linh chết trận, vùi thây nơi gò Đống Đa. Ngày nay chùa bị lấn chiếm
nhiều, khu đàn tế thu hẹp, dựng toà điện Địa Tạng để cúng các vong hồn.
Am Vạn Linh
Người ta thường hay nói đến số quân Thanh bị đánh
tan là 29 vạn (theo như bài vân ca ngợi của Ngô Thì Nhậm), hoặc 20 vạn (như ghi
chép của giáo sĩ phương Tây). Trong khi nhà Thanh thì chỉ chịu công nhận là chết
có 2 vạn. Nhiều nguồn khác nhau đưa ra những con số khác nhau. Chỉ biết khi Tôn
Sĩ Nghị chạy về đến Quảng Đông thì chỉ còn một nửa quân.
Nhưng bên cạnh số quân Thanh chết trận, người ta
thường cố tình quên đi số lính Việt cũng đã tử trận. Có bao nhiêu người đã chết,
không sách nào nói đến.
Số lính Việt chết trận được đưa về một khu nghĩa địa
chung, cũng chôn chung một chỗ. Người dân lập am Vạn Linh, làm đàn tế để cúng. Chỉ cái tên Vạn Linh cũng có
thể thấy số lượng cũng không ít vong hồn. Về sau cạnh am Vạn Linh lập thành
chùa, tức là chùa Kim Sơn ngày nay. Vì thế vào ngày 5 Tết, trong khi tại
Gò Đống Đa làm lễ hội rầm rộ vui mừng, thì tại chùa cũng làm lễ cúng tế các
vong hồn oan khuất trong chiến trận.
Chùa Kim Sơn trên đường Kim Mã, là đất bãi nghĩa địa
Vạn Linh xưa kia.
Tượng chùa Bộc
Nguyễn Ánh lên ngôi, tức là vua Gia Long, đã trả
thù nhà Tây Sơn một cách tàn bạo nhất có thể. Tất cả những gì liên quan đến
Quang Trung đều cố gắng xoá bằng sạch. Mọi người liên quan đến "Nguỵ Huệ"
đều bị xử tội, mọi văn bản đều bị tiêu huỷ, mọi cung điện đều bị san bằng, mồ mả
bị khai quật. Các đời sau là Minh Mạng, Thiệu Trị cũng vẫn tiếp tục, ai cất dấu
di sản Tây Sơn, thờ cúng nhà Tây Sơn đều bị giết cả nhà.
Ấy thế nhưng chính trong sự đàn áp đó, ở ngay giữa
Thăng Long lại có một pho tượng thờ Quang Trung được tạo dựng, đó là pho tượng ở
chùa Bộc.
Ở ngôi chùa miền Bắc nào cũng có pho tượng Đức Ông, tức là vị thần bảo vệ chùa. Pho tượng Đức Ông
chùa Bộc được tạc rất đặc biệt, chân phải bỏ ra khỏi giày, co lên thoải mái,
tay cầm vạt áo. Bên dưới lại có hai vị quan ngồi hầu cũng trong tư thế lạ lùng,
như đang ngồi bàn việc với Đức Ông. Bên trên có một chữ "Tâm", và bốn chữ "Uy phong lẫm liệt".
Điều đặc biệt hơn, là hai bên tượng có đôi câu đối,
mà câu bên trái là "Quang trung hoá Phật, tiểu thiên thế giới chuyển phong vân". Bốn chữ "Quang trung hoá phật" trong kinh
Phật để ca ngợi Phật A Di Đà, hoá thân trong ánh hào quang chói lọi. Tuy nhiên
nếu đọc theo cách khác thì lại có thể hiểu là vua Quang Trung đã hoá Phật (đã
qua đời), cả nghìn thế giới đều chuyển mây gió (để tiễn đưa).
Chính vì cách chơi chữ này nên mặc dù treo ngay
trước mặt quan quân triều Nguyễn, không ai phát giác ra.
Đến cách đây mấy chục năm, khi di chuyển tượng, mới
phát hiện dòng chữ "... tạo Quang Trung tượng" dấu đằng sau bệ tượng,
khẳng định đây chính là tượng thờ Quang Trung. Đây có lẽ là pho tượng thờ lén đặc
biệt nhất của Hà Nội.
Thờ lén Lê Ngọc Hân
Lê Ngọc Hân được phong là Bắc Cung hoàng hậu, nhưng có bà Chính cung hoàng hậu mới là mẹ của
Quang Toản. Ngọc Hân có được hai con, một trai một gái thì Quang Trung qua đời,
khi đó hoàng hậu mới 22 tuổi. Sử sách không ghi, nhưng cũng có thể đoán là bà
không được sung sướng gì khi bà Chính cung và Quang Toản nắm quyền, nên ba mẹ
con phải rời khỏi cung mà ra ở một ngôi chùa cạnh mộ Quang Trung. Để rồi 7 năm
sau Ngọc Hân cũng mất khi mới 29 tuổi. Hai người con của bà trong loạn lạc cũng
chết khi mới trên 10 tuổi.
Tây Sơn sụp đổ, Gia Long cho san phẳng mộ ba mẹ
con. Mẹ của Lê Ngọc Hân là bà Chiêu nghi vợ vua Lê Hiển Tông, dù triều Lê lẫn
Tây Sơn đã đổ, vẫn còn gia sản điền trang ở Ninh Hiệp. Thấy con gái chết tha
hương, mới sai người lén vào Huế đào lấy xương cốt con và hai cháu, đem về làng
mình chôn cất. Mộ Ngọc Hân nằm giữa, hai con nằm hai bên, lại đổi tên mà lập đền
thờ, để lại ruộng hậu cho dân làng cúng tế.
Hơn 30 năm sau, có kẻ tố giác việc "Nguỵ hậu" được mồ yên mả đẹp, có người cúng tế hẳn
hoi. Thế là vua Thiệu Trị sai quan phá huỷ đền, đào mộ Ngọc Hân và hai con lấy
xương cốt vứt xuống sông, đào đất xung quanh đổ đi, san bằng để cỏ mọc hoang.
Truyền thuyết nói rằng hài cốt Ngọc Hân trôi ra
sông Hồng, đến gần bến Bồ Đề thì nổi lên. Người dân rước vào bãi sông chôn kĩ rồi
lập đền thờ lên trên. Nhưng để che dấu, họ phải nói là đền thờ Mẫu Thoải. Ngày
nay đó chính là đền Ghềnh, gần chùa Bồ Đề. Pho tượng Mẫu Thoải trong hậu
cung của đền chính là tượng Lê Ngọc Hân.
Lòng người Bắc hà với triều Tây Sơn là như thế.
Trong thời nhà Nguyễn trả thù Tây Sơn, ở khắp miền đất nước có nơi nào được như
thế chăng ? Bà Chính cung hoàng hậu, vua Quang Toản, trên đất miền Trung, miền
Nam, trong thời Nguyễn, chẳng có nơi nào dám thờ cúng.
Đền Ghềnh, nơi thờ lén hoàng hậu Lê Ngọc Hân
Gia Long và Thăng Long
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, niên hiệu Gia Long, diệt Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn, thống nhất đất
nước sau 300 năm chia cắt. Lần đầu nước Việt trải dài từ Móng Cái đến Cà Mau.
(Trước đó Quang Trung cũng rất muốn thống nhất đất nước, nhưng do ông anh trai
Nguyễn Nhạc cũng xưng hoàng đế giữ Quy Nhơn, không thể loại bỏ anh được). Kinh
đô đặt tại Huế.
Ở Trung Quốc vừa trải qua triều Càn Long, đang là triều Gia Khánh, phải chăng vì thế mà Nguyễn Ánh chọn hiệu là Gia
Long ?
Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long cầu
phong với Trung Quốc, xin cái tên nước là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh thấy tên đó của Triệu Đà
ngày xưa gồm cả Lưỡng Quảng, nên mới đổi là Việt Nam. (Nhưng đến 1820 thì Minh Mạng lại đổi là Đại Nam).
Năm 1804, vua Tàu sai sứ sang phong Gia Long làm
An Nam quốc vương. Đó là cuộc lễ nghi rầm rộ nhất của Thăng Long trong triều
Nguyễn. Hoàng cung triều Lê mà trung tâm là điện Kính Thiên được trang hoàng rực
rỡ để đón nhận "Long đình", nơi Gia Long nhận quả ấn bạc "An Nam
quốc vương chi bảo".
Nhưng ngay sau buổi đại lễ đó, cái tên Thăng Long
thì chữ Long là Rồng đã bị đổi sang Long là hưng thịnh (cũng là chữ Long trong
Gia Long). Tuy nhiên trừ chữ viết trên giấy tờ, thì cách đọc không đổi. Phủ Phụng Thiên bị xoá bỏ, vì tại Kinh thành Huế đã có phủ Thừa Thiên. Thăng Long là thành Trấn Bắc, quản lý toàn bộ miền
Bắc, lập ra các Tào tương tự như các bộ ở Huế để quản lý mọi việc.
Tổng trấn Bắc thành có quyền rất lớn, tự chủ trong nhiều việc.
Phá hoàng thành
Năm 1805, Gia Long xoá phủ Phụng Thiên, phá hoàn toàn Hoàng thành của triều Lê.
Vì ở Huế xây dựng Kinh thành và Hoàng thành, nhưng
quy mô nhỏ hơn thành Thăng Long, nên Gia Long bắt hạ toàn bộ hoàng thành, thay
đổi cả La thành ở Thăng Long, sao cho phải nhỏ hơn, thấp hơn ở Huế.
Thế là toà thành cổ với những nền móng có từ thời
Lý - Trần đã bị triệt hạ hoàn toàn. Trong khu hoàng thành cũ, triều Nguyễn cho
xây một toà Trấn thành mới nhỏ hơn, theo kiến trúc Vauban, cũng là
kiến trúc thành Huế. Quanh toà Trấn thành đào hào, lấy nước sông Tô Lịch đổ
vào. Các cung điện trong Hoàng thành của triều Lê, ngoại trừ điện Kính Thiên được
để lại làm Hành cung khi vua ra Bắc, còn thì đều bị dỡ sạch. Gỗ đá còn tốt thì
đem về Huế để dựng cung điện tại đó.
Tại phía Nam của Trấn thành Vauban, toà Cột cờ cao gần 40 m được xây dựng, trở thành công
trình cao nhất tại đây trong hơn trăm năm. Kiến trúc cột cờ này còn gặp ở thành
Bắc Ninh, Sơn Tây, Nam Định.
Vòng thành ngoài cũng bị thu hẹp lại. Toàn bộ phần
phía Tây của thành Thăng Long, nơi có dinh thự các quan, tập trung quân lính,
voi ngựa bị loại bỏ, trở thành bên ngoài vòng thành mới. Các cổng thành trở
thành các Cửa ô, mà đến nay chỉ còn duy nhất một cửa.
Bản đồ thành Thăng Long vẽ thời Nguyễn, sau khi
vòng thành ngoài bị thu hẹp, và Hoàng thành cũ bị phá, thay vào đó là Trấn
thành kiểu Vauban mới. Sông Tô Lịch vẫn chảy ngang, đổ ra sông Hồng ở Hà Khẩu
Các cửa ô
Trước kia La thành triều Lê có bao nhiêu cửa,
không có ghi chép rõ.
Đến khi nhà Nguyễn quy hoạch lại Thăng Long, bỏ
phía Tây đi, thì có đến hơn 20 cửa, từ đời Lê các cửa thành ngoài đã gọi là các cửa ô. Đến đầu những năm 1900 ghi chép còn lại tên
chính thức của 16 cửa ô. Vì có các cửa ô nên mới có khái niệm Nội ô và Ngoại
ô.
Từ Ngoại ô thì sau được dùng phổ biến khắp cả nước,
mặc dù hình như chả có nơi nào dùng từ Cửa ô cả.
Một toà thành nếu nhằm mục đích quân sự, thì không
thể mở nhiều cửa đến thế, nhưng vòng ngoài thành Thăng Long lúc này (từ 1831 đổi
là Hà Nội) mang tính hành chính, dân sự nhiều hơn. Các cửa được xây vòm, có lầu
ở trên, là để kiểm soát dân chúng ra vào. Còn quân đội thì đóng trong Trấn
thành.
Vị trí của các cửa ô còn được ghi lại tên chính
xác thời Nguyễn màu đỏ, màu xanh là tên dân gian vẫn còn lại đến nay. Có thể thấy
ô Cầu Giấy xưa của triều Lê đã nằm xa bên ngoài vòng thành triều Nguyễn. Nhiều
cửa ô bị thay đổi tên vài lần.
Trấn thành
Vua Gia Long, vốn có giao thiệp với người Pháp từ
sớm, rất chuộng kiểu thành của Thống chế Vauban người Pháp, nên kinh thành Huế, Trấn thành
Thăng Long ở phía Bắc, Trấn thành Gia Định ở phía Nam, và một số thành khác đều
xây kiểu này. Thành Vauban có tường thành liên tục nhô ra thụt vào, để dễ dàng
đứng trên bắn xuống yểm trợ cho nhau.
Trấn thành được thu hẹp từ Hoàng thành, đào hào bốn
phía, lấy nước Tô Lịch đổ vào. Thành gần hình vuông, mỗi chiều dài khoảng
1,3km, tường cao khoảng 4m, hào rộng 15m. Dưới chân thành xếp đá, trên xây tường
gạch, ở giữa đổ đất. Có 5 cửa thành, phía Nam có 2 cửa là Tây Nam và Đông Nam.
Trong số đó chỉ Cửa Bắc là còn lại đến nay. Cửa Đông ứng với phố Cửa Đông, cửa
Tây Nam là khu Cửa Nam hiện nay. Cửa cao hẳn lên, khoảng 10m, trên xây lầu.
Các cung điện triều Lê, trước đó cũng đã bị tan
hoang trong chiến tranh, nay bị phá dỡ hết. Chỉ còn lại Đoan Môn, điện Kính
Thiên, lầu Tĩnh Bắc là để lại. Phía Nam dựng Cột cờ làm đài quan sát. Các chỗ
khác làm nơi đóng quân, dựng nha sở cho các quan lại.
Toà trấn thành này cũng bị người Pháp phá nốt năm
1895.
Tràng Tiền
Các triều đại mới lên, chắc chắn đổi niên hiệu,
cùng với đó là đúc và ban hành tiền mới. Trong dân chúng thường lưu hành tiền của
nhiều niên hiệu, loại bằng đồng thì giá trị hơn tiền bằng kẽm, và tích trữ lâu
năm không hỏng.
Ở Đàng Ngoài có mỏ đồng, nên việc đúc tiền không
khó khăn, nhưng Đàng Trong không có, nên phải mua hoặc thu thập đồng từ các nơi
đúc tiền. Triều Lê xưởng đúc tiền đặt ở khu Nhật Chiêu (nay là Nhật Tân) và ô Cầu
Dền. Thời Quang Trung đúc tiền nhẹ hơn nên lưu thông rất rộng và tiện.
Nguyễn diệt Tây Sơn, thành Huế tan hoang, phường
đúc ở Huế ly tán hết. Do đó vua Gia Long phải cho đúc tiền tại Thăng Long, sau
đó mới đúc ở Huế. Năm 1808, khu đất phía Đông Nam hồ Hoàn Kiếm được dùng làm xưởng
đúc tiền, gọi là Bảo Tuyền Cục, bên ngoài có lính canh gác cẩn mật. Để tránh
tình trạng ăn cắp, nhà Nguyễn chỉ cho phụ nữ vào làm, cuối ngày đi ra lính gác
lại kiểm tra, tạo nên những chuyện thị phi.
Khu xưởng đúc tiền đó, vì thế được gọi là Trường Tiền, hay Tràng Tiền.
Sau này người Pháp phá xưởng đúc tiền, mở con phố
Tây mà nay là phố Tràng Tiền.
Những đồng Gia Long thông bảo, gồm tiền đồng và tiền
kẽm
Tràng Thi
Văn Miếu là biểu tượng của Nho giáo, thì Thi cử
chính là Thiết chế của Nho học. Chế độ khoa cử của ta bắt chước Tàu, khỏi nói.
Có ba kì thi: Hương, Hội, Đình.
Các sĩ tử được quan địa phương xác nhận mới được
đăng kí một kì thi sát hạch tại các trấn (sau là tỉnh), qua được kì sát hạch
thì mới bước vào thi Hương. Thi Hương gồm 4 vòng thi, mỗi vòng làm bài trong 1
ngày từ sáng đến tối. Thi xong vòng nào chấm luôn vòng đó, qua rồi mới được vào
vòng trong. Kì thi Hương vì thế kéo dài cả tháng. Ai chỉ qua được 3 vòng thì là Tú tài, qua được cả 4 là đỗ thi Hương, là Cử nhân (hương cống).
Thi Hội tổ chức tại kinh đô, cũng gồm 4 vòng, qua
được cả 4 mới vào thi Đình, đỗ mới thành Tiến sĩ (hoàng giáp, ông nghè), còn nếu không lại trở
về làm ông Cử nhân mà thôi.
Thi Hương tổ chức ở một số tỉnh lớn, thi Hội ở
Kinh đô, thi Đình ngay trong cung vua. Thời Lê, tại Thăng Long thì trường thi
Hương ở khu Quảng Bá, trường thi Hội ở phía Thủ Lệ, bản đồ Hồng Đức ghi rõ là Hội
thí.
Khi Thăng Long không còn là kinh đô, nhà Nguyễn dời
trường thi Hương về phía Tây Nam của hồ Hoàn Kiếm, gọi là Trường Thi - Tràng Thi. Ngày nay là khu Thư viện Quốc gia.
Tràng Thi chỉ là bãi đất trống có đánh luống để sĩ
tử cắm lều che mưa nắng, đặt cái chõng trong cái lều đó làm bài trong 4 vòng
(nên gọi chung là "lều chõng"). Có các chòi cao để giám thị đứng trên
trông xuống. Vì ba năm mới thi một lần, nên lúc không có thi, bãi đó vẫn cho
dân vào cày cấy trồng trọt bình thường.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa
Cảnh trường thi Hương ở Nam Định năm 1897, trường
thi ở Thăng Long thì cảnh quan cũng y như thế
Tháp Rùa
Tháp Rùa xuất hiện giữa hồ Gươm vào năm 1883, ngay
khi Pháp bắt đầu cai trị Hà Nội.
Gò Rùa, còn được gọi là Quy Sơn, là gò đất nổi
phía Nam hồ Gươm. Thời hồ Gươm còn thông với sông Hồng, khi nước lên còn ngập cả
gò. Sau này hồ tách biệt, ngày mưa to gò cũng lấp xấp nước, xưa nay vốn không
có công trình gì.
Sách cũ ghi ông Bá hộ tên là Kim, một người có làm
việc cho Pháp, đã xin phép toà Đốc lý và xây cái tháp ba tầng. Hai tầng dưới
theo kiến trúc Tây, cửa vòm nhọn, tầng trên cùng bé lại, mái lợp ngói kiểu ta,
đắp bốn con rồng quay ra bốn phía. Ngọn tháp tuy thấp, kiến trúc lạ lùng, nhưng
lại rất vừa vặn với khung cảnh hồ Gươm, trở thành một điểm nhấn rất hài hoà.
Mục đích của Tháp Rùa để làm gì không được rõ. Có giai
thoại cho rằng đó là do Bá hộ Kim muốn táng mộ bố mình vào đó để được phát, những
người thợ đã vứt hài cốt xuống hồ. Tuy nhiên giai thoại đó cũng rất có thể là
do người ta ghét Bá hộ Kim làm việc cho Pháp mà đặt ra, chứ không có thật.
Một ngọn tháp "không đáng gọi là tháp",
không mang ý nghĩa lịch sử văn hoá nào, thế nhưng trăm năm qua vẫn đứng đó,
thân thuộc vô cùng. Đến nỗi năm 1992, chỉ mới quét nước ximăng lên bên ngoài
làm tháp trông mới hơn mà người Hà Nội đã sôi sùng sục lên rồi, nếu tưởng tượng
một ngày trên gò Rùa tháp biến mất, thì không hiểu sẽ thế nào?
Hình ảnh Tháp Rùa đã đi vào nghệ thuật, và vào tâm
trí của người biết và yêu Hà Nội sâu sắc đến không thể thay thế.
Trăm năm trước
Có người đã tìm thấy sự tương đồng tỉ lệ hình học của Tháp
Rùa khá thú vị. Tôi không biết tác giả là ai, thấy ảnh trên mạng nên cắt bớt phần
rườm rà, gửi lên mọi người cùng xem.
Tuy nhiên, có thể thấy kết quả là do sự hài hoà và
đối xứng trong kiến trúc nói chung, chứ không phải chủ ý của người xây, chẳng hạn
hai vòng tròn và hai ngôi sao bên dưới nhỏ hơn vòng tròn và ngôi sao trên cùng
(vì 2 vòng đó không chạm được vào cánh của ngôi sao lớn)...
_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn


















Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét