Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội
Tác giả Chitto - phuot.vn
Thánh Chúa và Thánh Đức
Chuyện cầu con của Lý Thánh Tông còn liên quan đến
hai ngôi chùa trên đất Hà Nội (nhưng là ngoại
thành Thăng Long).
Khi có Ỷ
Lan rồi, Lý Thánh Tông vẫn
chưa có con, thường đi cầu tự ở
ngôi chùa phía Tây thành Thăng Long. Khi không đến được
thì vua sai nội thị là Nguyễn Bông thường
xuyên đến đó khẩn cầu. Truyền thuyết kể rằng có pháp sư là
Đại Điên bảo với Bông là có thể
làm thuật để Bông thoát xác đầu
thai làm con vua. Việc bị lộ, Nguyễn Bông bị chém đầu ở ngoài cổng chùa, còn Đại Điên
thì không thấy nói đến nữa, nhưng lại xuất hiện trong truyền
thuyết về Từ Đạo Hạnh sau này.
Đến khi Ỷ Lan sinh được
con trai, vua mừng rỡ sai đổi tên chùa thành Thánh Chúa, dọc đường từ chùa Thánh Chúa về
hoàng thành lại cho dựng chùa Thánh Đức, ngụ ý mong cho con mình sẽ
thành vị vua tài giỏi
và đức độ. Điều mong ước đó trở thành hiện
thực, thái tử Càn Đức sau này là vua Lý Nhân Tông là vị vua trị vì lâu nhất
trong lịch sử phong kiến
Việt Nam, là vị
vua tài giỏi anh minh bậc
nhất.
Ngày nay chùa Thánh Chúa nằm lọt
trong khuôn viên trường ĐH Sư Phạm. Còn chùa Thánh Đức
thì chính là chùa Hà nổi tiếng về cầu duyên, nằm
cuối phố Chùa Hà.
Cổng chùa Thánh Chúa
(Có truyền thuyết khác nữa về chùa Hà, nhưng riêng tôi thấy truyền thuyết này hợp lý, lại cũng thật hay)
Thập
tam trại
Lý Nhân Tông nối
ngôi, là vị vua trị vì lâu nhất
trong lịch sử Việt Nam, 56 năm.
Thời đầu, Thái hậu Ỷ
Lan cùng Thái uý Lý Thường Kiệt nắm quyền, Đại Việt hùng mạnh đã mang quân sang đánh
nhà Tống, phá Ung Châu, Khâm Châu, làm cỏ cả
thành Ung Châu. Quân Tống sang đánh nhưng bị chặn lại tại Như Nguyệt rồi rút về. Thăng Long không hề bị thương
tổn nào. Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập ở phía nam Thăng
Long. Về Văn, đời Lý Nhân Tông cho lập
Quốc Tử Giám là trường
học quốc gia đầu tiên.
Có truyền
thuyết rằng con gái Lý Nhân Tông đi
thuyền trên sông Đuống,
bị chết đuối. Có người làng Lệ Mật vớt được xác, Lý Nhân Tông ban thưởng
bằng cách cho người dân Lệ Mật vào lập 13 trại tại phía Tây của
Thăng Long, khi đó còn
ít người sinh sống, chỉ có một số quan, lính. Từ đó hình
thành nên tên gọi Thập tam trại.
Thập tam trại chính xác gồm
những nơi nào không rõ, ngày nay về lễ đình
Lệ Mật thì gồm các nơi: Vĩnh Phúc, Liễu
Giai, Cống Vị, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Kim Mã, Xuân Biểu,
Thủ Lệ, Vạn Phúc, Ngọc
Khánh, Đại Yên, Giảng
Võ, Cống Yên.
Đình Lệ Mật, nơi thờ thành hoàng làng, cũng
là người có công lập
ra Thập tam trại.
Lý Thường
Kiệt
Một trong những
người Thăng Long nổi
tiếng nhất là Lý Thường Kiệt, vị tướng giỏi nhất triều Lý. Ông tên thật
là Ngô Tuấn, quê ngay tại khu vực phía Nam thành Thăng
Long. Khi Lý Thái Tổ dời đô thì một phần làng quê ông thuộc về
kinh thành.
Sinh ra dưới
thời Lý Thái Tông, ông là nội
thị (hoạn quan) của
Lý Thái Tông, nhưng do có tài nên đến
thời Lý Thánh Tông thì được nắm
giữ quân đội. Sang đến triều Lý Nhân Tông, ông được
phong Thái Uý, đứng đầu hàng Võ, thống
lĩnh toàn bộ quân đội. Ông liên kết với
Thái hậu Ỷ Lan, đã thắng phe của Thái hậu Thượng Dương và Thái sư Lý
Đạo Thành năm 1069.
Cùng Thái hậu Ỷ
Lan nắm quyền, trước tin nhà Tống định đánh
chiếm Đại Việt, ông quyết định
chủ động đánh trước. Và trận đánh năm 1075 đó là lần duy nhất người Việt chính thức đánh
Trung Quốc, phá tan Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu,
làm cỏ thành Ung Châu (Nam Ninh ngày nay) giết
58 nghìn người trong thành đó.
Tổng cộng giết quân và dân Hán gần
100 nghìn, rồi rút về nước.
Nhà Tống đem quân sang báo thù, ông lập
phòng tuyến Như Nguyệt, giằng co, cuối
cùng quân Tống phải rút về. Tại phòng tuyến
này đã vang lên bài thơ bất hủ:
Nam quốc sơn hà
Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại
thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai
xâm phạm
Nhữ đẳng
hành khan thủ bại hư.
Lý Thường Kiệt từ họ Ngô được ban họ Lý, gia phong rất
nhiều tước, có thể nói là thuộc
loại bậc nhất trong các quan lại
triều Lý: Thượng trụ quốc,
Phụ Quốc
Thái phó Thượng tướng
quân, tước Khai Quốc
công.
(Tước từ cao xuống thấp có Công - Hầu -
Bá - Tử - Nam, hoàng tử thời
Lý Thánh Tông cũng chỉ phong tước Hầu, mà ông tước
Công, thì còn cao hơn).
Ông mất khi 87 tuổi, được
truy phong Việt Quốc
Công, là tước Quốc Công cao nhất
có thể có.
Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập tại quê nhà ông là làng An Xá, sau là Cơ
Xá, nay thuộc khu vực gần viện Pasteur. Đền gọi
là đền Cơ Xá, nằm đầu phố Nguyễn Huy Tự
Ngoài ra còn đình Phúc Xá, đền Tiên Thiên cũng thờ Lý Thường Kiệt.
Lăng Phùng Hưng
Nhân nói đến
phần mộ Lý Thường Kiệt được cho rằng nằm trong khu vực đất đình
Nam Đồng, không thể bỏ
qua một lăng mộ khác cũng nằm giữa Thăng Long, là mộ của Bố Cái Đại vương
Phùng Hưng.
Phùng Hưng
người làng Đường Lâm, mảnh đất sau này còn có vua Ngô Quyền. Nổi dậy chống lại nhà Đường đô hộ trong khoảng
766 - 790, ông đã có nhiều thành công, vây được
quân nhà Đường đóng ở huyện Tống Bình (khu vực
Thăng Long sau này), đuổi được
quân Đường sang bên kia sông. Sự
nghiệp chưa thành thì Phùng Hưng qua đời năm
791, khi mới ngoài 40 tuổi.
Đến nay, có một lăng
mộ được nhân dân ngàn năm tôn
thờ là mộ của Phùng Hưng,
nằm ngay giữa thành Thăng
Long. Thực tế là có thể chỉ là
lăng thờ tượng trưng, vì sau khi Phùng Hưng
mất, quân Đường chiếm lại đất Tống Bình, mà sự trả
thù của người Tàu đều không đơn giản, liệu mộ Phùng Hưng nếu chôn ở đây có thể nguyên vẹn được
không?
Ngày nay, lăng
Phùng Hưng nằm ngay phía sau bến
xe Kim Mã, đường vào trên đoạn
cuối của phố Giảng Võ.
Quốc Tử
Giám
Về Võ, chíến dịch đánh Tống và chống Tống thể hiện sức mạnh triều Lý. Về Văn, triều Lý Nhân Tông được đánh
dấu bởi việc mở Quốc Tử
Giám, trường học Quốc gia đầu tiên. Có một điều
thú vị là thời Thánh Tông, năm
1069 đánh thắng Chiêm Thành liền
sau đó, năm 1070 lập Văn Miếu; thời Nhân Tông, năm
1075 đánh thắng Tống thì liền
sau đó năm 1076 lập Quốc Tử Giám.
Lịch sử ghi công này cho Lý Nhân Tông, nhưng
thực ra khi đó
vua mới chỉ có 11 tuổi,
nào đã biết gì về Võ hay Văn,
mà đó là công của
Thái hậu nhiếp chính Ỷ Lan, và thái sư Lý Đạo Thành. Trước kia Lý Đạo
Thành theo phe Thượng Dương, bị dời vào trấn thủ Nghệ An, nhưng Thái hậu Ỷ
Lan bỏ qua chuyện cũ, lại mời
ông ra làm Thái sư như cũ. Có thể cho rằng chính ông là người đã hậu
thuẫn cho việc mở trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.
Triều đại mà Võ thì có Lý Thường
Kiệt, Văn thì có Lý Đạo
Thành, lại có bà Thái hậu
uyên bác quyết đoán, thì dù là vua bé vẫn cứ hưng
thịnh, và Thăng
Long ngày càng được xây dựng hoàn thiện,
to đẹp.
Dâm Đàm
Triều Lý Nhân Tông có vụ án
nổi tiếng liên quan đến hồ
Tây, tức là vụ án Dâm Đàm.
Ngay từ khi định đô trên đất này, hồ Tây đã là một phần không thể
tách rời của thành Thăng
Long. Tên hồ đời Lý là Dâm Đàm, tức là đầm mù sương. Ngày nay mỗi
ngày có sương, thì cảnh
sắc hồ Tây cũng vẫn rất huyền ảo. Hồ lại có tên là đầm Xác cáo, do truyền thuyết xưa đây là nơi Hồ ly tinh đào
hang sống, Lạc Long Quân đã
giết cáo tinh rồi vứt
xác ở đây. Lại còn gọi là hồ Kim Ngưu - Trâu Vàng, theo truyền
thuyết Khổng lồ đúc chuông (sẽ
nói sau). Đến đời Lê mới gọi là Tây hồ,
có lẽ để đối ứng với tên gọi Đông Đô chăng, vì hồ đâu có nằm ở phía Tây của
Thăng Long, mà ở
phía Bắc.
Với Thăng Long, hồ
Tây là thắng cảnh đệ nhất. Nếu sông Cái - Nhĩ Hà
là con đường giao thông, lưu
thương buôn bán, là cái hào tự
nhiên vĩ đại ngăn giặc Bắc, thì hồ Tây là nơi
thưởng ngoạn tuyệt vời. Vì thế tại hòn đảo Kim Ngư (Cá vàng) giữa hồ,
nhà Lý cho dựng cung Thuý Hoa, bờ bắc còn làm cung Từ Hoa, là nơi vui chơi nghỉ ngơi của các vua Lý. Lúc này con đê
chia đôi hồ chưa có, nên đảo
Kim Ngư chơi vơi giữa mênh mông sóng nước,
bình minh hay hoàng hôn đều rực rỡ cả, chắc hẳn là rất đẹp.
Tại Dâm Đàm, từ đời Lý đã có các địa
danh Hồ Khẩu (cửa sông Tô Lịch
nối với hồ), Giang Tân (bến
sông), Lãng Bạc (bến sóng), Trích Sài (hái củi),
Võng Thị (chợ bán lưới)... rồi Nghi Tàm, Nhật
Tân,..., những cái tên còn đến
ngày hôm nay. Vua chúa từ thời đó đã thường thích đi
thuyền trên hồ ngắm cảnh, xem dân gian buôn bán, đánh
cá.
Và cũng từ một lần vua đi xem đánh cá mà có vụ án
Dâm Đàm.
Lê Văn
Thịnh
Năm 1075, vua Lý Nhân Tông (thực
ra là Thái hậu Ỷ Lan) mở khoa thi đầu
tiên của nước Việt, Lê Văn Thịnh đỗ đầu, thời ấy chưa gọi là Trạng Nguyên, nhưng
có thể coi ông là Trạng
Nguyên đầu tiên của nước ta. Ông khi đó
37 tuổi, được vào cung dạy dỗ
cho ông vua bé 11 tuổi.
Mười năm sau, 1085, ông đi sứ
Trung Quốc, bằng tài ngoại
giao của mình đã lấy lại được tất cả phần đất mà nhà Tống
chiếm chưa chịu trả, nên khi về
triều được phong Thái sư, vừa là thầy học của vua, vừa là vị quan đầu triều.
Sử chép năm 1096, vua Lý Nhân Tông (30 tuổi) đi
chơi Dâm Đàm xem dân đánh
cá, Thái sư khi đó 58 tuổi, đi theo hầu. Bỗng sương mù bao phủ,
trong thuyền bỗng xuất hiện con hổ định vồ vua. Người đánh cá là Mục
Thận vội quăng lưới lên con hổ,
vua cũng lấy giáo đâm. Sương tan thì thấy
trong lưới chính là Thái sư Lê
Văn Thịnh. Ông bị kết tội hoá hổ để giết
vua, bị đày đi Thao Giang đến
chết.
Chuyện này là vụ án
chính trị, có lẽ vì những bất đồng của Thái sư già và vua trẻ,
và có thể cả thế lực khác nữa, nên mới đặt ra chuyện
huyễn hoặc này. Chứ
theo luật của mọi triều đại, thì giết
vua là chắc chắn phải chết, không có chuyện
chỉ bị đi đày.
Nỗi oan của Lê Văn Thịnh được người dân đời sau thấu hiểu, nên lập đền thờ ông tại quê, và tạc
hình con rồng đá cắn vào thân, chân cào vào bụng đầy uất ức.
Còn ông Mục
Thận "có công cứu
vua" là người làng Võng Thị, cũng được lập đền
thờ, và là thành hoàng làng. Ngày nay đình
Võng Thị thờ ông này.
Cổng chùa Võng Thị,
ngay sát với đình Võng Thị (đình
này thì tu sửa mới toe rồi)
_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét