Vanuatu (bài 4): từ “chân đăng” đến Việt kiều Tân Đảo
Đặng
Thái
Chị
chủ quán thì không ngờ mình là người Việt vì “Người Việt ở
bên này ít lắm em à. Sống rải
rác chứ không ở trên tỉnh, có việc mới
đi lên tỉnh thôi. Hai cụ đẻ
ra ông nội chồng
chị ngày xưa sang đây đi phu cho Pháp, từ lâu lẩu lầu
lâu rồi.” Người Việt ở
đây gọi người
bản địa
là “dân Đen”, tiếng
bản địa
Bislama là tiếng Đen, nhiều người
Việt nói tiếng Đen thành thạo. Lên phố hay lên city thì gọi là “lên tỉnh”, về Việt
Nam thì gọi là “về Việt”
hay “đi Việt” rất là đặc trưng.
Chị tiếp:
“Dân Đen hiền lành lắm, em thấy ở
đây nghèo thì nghèo nhưng
tuyệt nhiên không có trộm cướp,
ăn xin bao giờ. Em đi dọc phố
thì thấy đu đủ nó mọc
đầy bên đường đấy, đói thì hái mà ăn, đào đâu cũng
có khoai, không lo chết
đói. Nhưng phải
cái nói trước quên sau, huấn luyện
để mà làm được phục vụ
bàn cũng mệt lắm.”
Trên biển hiệu của một Công ty xây dựng có ghi Doanh nghiệp Dinh Van Tu, là một người thuộc dòng họ Đinh. Ảnh: Đặng Thái
Người
Việt đến
đây chỉ cần
chịu khó làm ăn thì cũng có của ăn của để.
Mình giới thiệu
là người Việt Nam thì dân đây không ai biết, nhưng
hỏi có biết ông Đinh Văn Thân không thì ai
cũng biết. Người
hướng dẫn viên du lịch nói với mình rằng ông Đinh Văn Thân là doanh nhân
đầu tiên ở Vanuatu và giàu nhất Vanuatu. Ông từng làm chủ tịch
hội đồng
quản trị
hãng Air Vanuatu. Ở
ngoài cảng có tàu hàng Dinh I, Dinh II,
nghe đâu do Vinashin đóng. Nếu
ông Thân không rút lui khỏi
chính trị thì có lẽ ông đã là Thủ tướng
gốc Việt
đầu tiên ở nước
ngoài. Em ông là Dominique Đinh cũng làm chính trị,
rất nổi
tiếng. Con cháu đều làm ăn phát đạt trong nghề xây dựng và bất động
sản. Bố
mẹ ông Đinh Văn Thân đều là người Việt, bố
ông sang đây làm “chân đăng”.
Chân đăng
Đầu
thế kỉ
20, nhiều người
nông dân ở những vùng quê đồng bằng
Bắc Bộ
đông dân, hay bão lũ quyết
tâm xa quê một thời gian, đi lao động để
thoát khỏi đói nghèo. Xem đoạn phỏng
vấn một
cụ bà đã gần trăm tuổi thì cụ kể:
“Tôi đi lễ nhà thờ về,
người ta rủ: “Cô Sen, cô có đi mộ phu không?”. Đi Nam Kỳ hoặc đi Tân Thế (Giới).
Nghe đâu đi Nam Kỳ thì bọn
chủ cao su nó nóng nảy, thế
là đi Tân Thế. Bà mẹ tôi thương, bảo 5 năm chỉ như
giấc ngủ
ngày ấy mà. Chứ lúc ấy
tôi 17 tuổi, biết gì đâu.”
Người
lao động
Việt
Nam tại
Tân Đảo,
phụ
nữ chít khăn mỏ quạ, đàn ông cầm gậy dài để hái dừa.
Cứ
năm đàn ông thì mới
có một phụ
nữ. Hầu
hết là đi để đổi
đời, nhưng
cũng nhiều người
con gái, trốn nhà đi để khỏi
phải lấy
chồng. Họ
gọi nhau là những người
“chân đăng”. Đến nay nguồn gốc
của từ
“chân đăng” này vẫn
còn chưa rõ ràng, nhưng
theo một số
người mà mình tiếp xúc thì họ cho rằng các cụ ngày xưa hay nói: “Đăng ký cho tôi một chân đi Tân Đảo/Tân Thế (Giới)”
nên từ đó mà ra. Cuộc sống
của người
làm phu vất vả khổ
cực, làm việc nặng
nhọc mà vẫn bị
đánh đập dã man, đàn bà thì bị hiếp,
nhiều người
chịu không nổi phải
tự chặt
một ngón tay để xin về, rồi
dần dần
chặt tay cũng không được về nữa.
Lương thì được
80 quan (franc) một
năm, họ bị
coi như những
“nô lệ da vàng”. Tuy nhiên khi ở nhà thì không ai biết những
điều kiện
lao động ấy.
Sang đến nơi
rồi không còn đường lui, mọi người
chỉ còn biết bảo
nhau cố làm cho hết hạn
hợp đồng
rồi sẽ
được tự do. Nhưng nhiều người
trong số họ
đã chết trước
khi có cơ hội
trở về
quê hương.
Việt
kiều Tân Đảo
Đến
năm 1940, khi Chiến
tranh thế giới
thứ hai nổ ra thì việc đi lại giữa
Tân Đảo và Việt Nam bị cắt
đứt. Cộng
đồng người
Việt chủ
yếu là người Bắc, nghe thông tin qua đài thì ủng hộ
Việt Minh, ủng hộ
cụ Hồ.
Mọi người
ăn mừng khi nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời và phải mất
mấy năm liền đấu
tranh đến ngày 30. 6. 1946 mới dám liều lĩnh kéo lá cờ đỏ
sao vàng lên ngang hàng với
cờ Pháp. Các hội người
Việt treo ảnh lãnh tụ Hồ
Chí Minh trong hội
quán, gửi về
nước hàng triệu quan để đóng góp cho kháng chiến.
Ngày 30. 6. 1946 Cũng hát Quốc ca kéo Cờ đỏ Sao vàng lần đầu tiên tại Port Vila Tân đảo. Nguồn từ trang
này
Sau chiến
thắng Điện
Biên Phủ, nhiều
người Pháp thù hận người
Việt ở
Tân Đảo và công khai chửi bới,
dùng bạo lực,
phá hoại tài sản của
người Việt. Các tổ chức
của người
Việt bèn nhân cớ này đấu tranh đòi quyền được
hồi hương.
Cả hai chính quyền miền
Bắc-miền
Nam trong nước đều cử
đại điện
sang kêu gọi bà con về. Kết
quả là 90% về miền
Bắc, 10% ở lại
vì có nhiều con cái, tài sản, không ai về miền
Nam.
Phái viên Vũ Hoàng của VNDCCH (áo com-lê sẫm màu, đứng giữa) cùng bà con Việt kiều Tân thế giới hồi hương.
Cuối
cùng thì vào ngày 30. 12. 1960 con tàu Eastern Queen (Nữ hoàng phương Đông) đã đưa
551 người rời Tân Đảo để
cập bến
Hải Phòng ngày 12. 1. 1961. Đích thân
Thủ tướng
Phạm Văn Đồng ra đón kiều bào ở cảng.
Trước đó vào năm 1959,
Chính phủ đã ký hẳn một
Nghị quyết
không số Về
việc đón tiếp kiều
bào ở Thái Lan, Tân Đảo, Tân Thế Giới
về nước,
đây cũng là tiền đề cho sự thành lập Ủy
ban Nhà nước về người
Việt Nam ở nước
ngoài sau này.
Nếu
ai đã từng đi tham quan Khu di tích Chủ tịch
Hồ Chí Minh tại Phủ
Chủ tịch
ở Hà Nội
hẳn sẽ
từng nhìn thấy đội
xe con phục vụ Cụ
Hồ được
triển lãm trong phòng kính. Trong đó có
một chiếc
Peugeot 404, loại
xe đời mới
nhất của
Pháp lúc bấy giờ, mới
bắt đầu
sản xuất
từ năm 1960. Đây là món quà của bà con Tân Đảo góp tiền mua tặng Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hòa, một Việt
kiều đã lái thẳng xe từ Hải
Phòng lên Hà Nội giao tận tay cho Văn phòng Phủ Thủ
tướng.
Chiếc
xe Peugeot 404 (Pơ-giô
404) mang biển
HNC 232 được
mệnh danh là chiếc xe vạn dặm, không phải vì số ki-lô-mét đi được mà vì kiều bào mang về từ Tân Đảo xa xôi. Cụ Hồ cho là xe quá xịn, đến tận cuối đời khi tuổi cao sức yếu mới quyết định dùng.
Trong hai năm 1963, 1964 có thêm 11 chuyến tàu nữa đưa
hàng nghìn người từ hai quần đảo
xa xôi về nước,
rồi họ
lại tản
ra theo phân công của
các đơn vị,
nhiều người
đi mãi Tuyên Quang, Lào Cai có người
đi vùng mỏ Quảng Ninh, người thì ở lại
ngay Hải Phòng. Thế hệ
thứ hai sinh ra ở Tân Đảo, nói tiếng Việt
sõi như bất
kì người Việt nào trong nước, nhưng giờ
mới lần
đầu tiên được đặt chân lên đất mẹ.
Đến
hết bao cấp thì thế hệ
Việt kiều
Tân Đảo thứ
hai lại kéo nhau quay lại Tân Đảo và Tân Thế Giới
vì trong nước đói kém. Sau
năm 1980, Vanuatu bất
ổn chính trị cũng khiến nhiều
người rời sang Tân Thế Giới,
lấy hộ
chiếu Pháp và giờ cộng
đồng người
Việt ở
đấy cũng đông hơn nhiều.
*
Khu mộ người Việt trong nghĩa trang
thành phố.
Ảnh: Đặng Thái
Mình tìm đến
nghĩa trang thành phố.
Trong cả một
vùng cỏ xanh mướt rộng lớn
có một khu vực được
quây lại riêng biệt bằng
hàng rào ống kẽm, sạch
sẽ ngăn nắp, thấp
thoáng những mái ngói lăng
mộ như
ở Việt
Nam. Mình cực kỳ xúc động khi đọc thấy
những tên người Việt Nam trên những bia mộ. Năm sinh của nhiều
người từ mãi cuối thế
kỷ 19, đến nay đã hơn một
trăm hai mươi năm. Có bia mộ của
những người
phu dũng cảm, đứng lên chống lại
bọn chủ
hà khắc và bị chính quyền thực
dân chém đầu. Nhưng ấn
tượng nhất với
phải là hai câu đối chữ
Hán viết trên hai cây cột xây theo lối ở
cổng đình làng Bắc Bộ:
.
“Thán dã đồng bào hồng Bắc khứ
Ta hồ
ngã chủng
cách nam quy”
Nghĩa là:
“Than ôi, đồng bào ta đã theo chim
Hồng đi về phương Bắc
Tiếc
thay, dòng giống
cốt nhục này phải quay về với trời Nam”
*
_______________
Nguồn:
soi.today
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét