Vanuatu (bài 3): Bún nào ngon bằng bún Tân Đảo
Đặng
Thái
Lời
mở đầu: Trên
thế giới
chỉ có bốn
nước tên bắt đầu
bằng phụ
âm “V”, ngoài quê choa thì Vatican và Venezuela đều
được đông đảo dân ta biết đến.
Còn Vanuatu thì xa xôi quá, hầu
như không ai nghe nói đến
bao giờ. Vậy
mà ít người biết rằng
đây lại là nơi chôn nhau cắt
rốn của
hàng nghìn đồng bào Việt Nam. Người Việt đã từng đặt
chân đến mảnh
đất ấy
cả trăm năm về trước,
hình thành một trong những cộng
đồng người
Việt ở
nước ngoài đầu tiên trong lịch sử.
Ngày nay, con cháu của
những bậc
tiền nhân đi tiên phong vẫn còn tiếp tục
sinh sống tại
nơi được
mệnh danh là xứ sở
hạnh phúc nhất thế
giới này.
Người
lao động Việt
Nam tại Tân Đảo, đàn ông cầm gậy
dài để hái dừa. Nguồn từ trang
này
*
Cặp vợ
chồng người
Pháp đã kể ở cuối
bài trước không phải đến
từ Pháp mà sinh ra và lớn lên ở một
lãnh thổ hải
ngoại của
Cộng hòa Pháp tên là New Caledonia.
Trước khi độc lập
vào năm 1980, Vanuatu có tên tiếng
Anh là New Hebrides (tiếng
Pháp: Nouvelles-Hébrides). Cùng với
New Caledonia (tiếng
Pháp: Nouvelles-Calédonie), đây là hai quần
đảo thuộc
địa của
thực dân Pháp tại Nam Thái Bình Dương, cách bờ Đông Australia khoảng 1500 cây số. Những
người Việt Nam (trong văn bản của
Pháp ghi Annamite) đầu
tiên được ghi nhận đặt
chân đến đây lại là phạm nhân và tù chính trị vào khoảng năm 1911.
Cộng
đồng công giáo Việt Nam tại Port Vila, New Hebrides. Nguồn từ trang
này
Năm 1923, 145 người
lao động Bắc
Kỳ đầu tiên chính thức đến
New Hebrides theo diện
mộ phu (tức là người phu được tuyển mộ).
Những người
này đi xuất khẩu lao động có hợp đồng
5 năm ký với các công ty
tuyển dụng
của Pháp để vào làm trong các đồn điền.
Cùng khoảng thời
gian đó cũng có một
số lượng
lớn người
lao động chọn
đi làm công nhân mỏ
kền (tức
niken) ở New Caledonia. Những người
nông dân Việt Nam gọi New Hebrides là Tân Đảo, còn New Caledonia là Tân Thế Giới
(từ đây sẽ gọi
bằng tên Việt cho dễ đọc).
Những
đồn điền
dừa mênh mông được trồng bởi
bàn tay người Việt Nam. Ảnh: Đặng
Thái
Cho đến
cách đây một vài năm mình mới biết
đến sự
tồn tại
của hai cộng đồng
người Việt ở
Tân Đảo và Tân Thế Giới
với một
lịch sử
lâu đời và rất thú vị. Năm 2007, hãng phim tài liệu TFS của Đài Truyền hình thành phố Hồ
Chí Minh đã quay một
bộ phim tài liệu rất
công phu tên là “Ký sự
Tân Đảo”, có chiếu trên sóng truyền hình và phát hành cả đĩa DVD nhưng mình đi tìm mua thì không nơi
nào còn bán. Gần đây, một đài hải ngoại
và VTV cũng đã có mấy
tập phim, nhưng chủ
yếu là quay ở Tân Thế Giới,
cơ sở
hạ tầng
rất tốt
như ở
Pháp, còn bên Tân Đảo
thì không có. Đoàn của
VTV và mình giống nhau ở chỗ
cùng tham khảo một tư
liệu là cuốn sách Bí ẩn Đặng (Nhà
xuất bản
Phụ nữ,
2010) nói về ông Đặng Văn Nha, một tỉ
phú đô la gốc Việt ở
New Caledonia. Tiếc
rằng dịch
giả của
cuốn này gọi sai ngay cái tên quan trọng nhất,
New Caledonia thì dịch
là Tân Đảo (lẽ
ra là Tân Thế Giới) còn Vanuatu mới là Tân Đảo. Chuyến đi này ta sẽ cùng tìm hiểu về
Việt kiều
Tân Đảo.
Những
cuộc
gặp đầu tiên
Người
Việt đầu
tiên mình gặp không phải ở
Vanuatu, mà ở bên Brisbane.
Trong số khách ngồi chờ
lên máy bay chỉ có mấy người
tóc đen, và dễ dàng nhận ra một bác gái có những nét Việt Nam khác hẳn hai cô gốc Hoa ngồi gần
đấy. Mình còn đang băn khoăn không biết có đúng người Việt không thì bác nói trong điện thoại
để khẳng
định luôn: “Con thổi cơm
đi, tối mẹ
về ăn cơm,
mẹ đang trên đường sắp về
đến nơi
rồi”. Mình suýt nữa phì cười vì giọng Bắc,
gọi là “thổi cơm” và đi máy bay quốc tế
mà cảm thấy
giống như
đi xe khách vậy.
Sân bay quốc
tế Bauerfield ở Port Vila. Ảnh: Wikimedia/PetterLundkvist.
Đến
sân bay Port Vila, như
thường lệ, khi đưa cuốn
hộ chiếu
màu xanh “ngọc bích” của mình qua khe kính của quầy
xuất nhập
cảnh là người ngồi bên kia sẽ bị
vài giây chững lại. Anh nhân viên xuất nhập
cảnh không biết xử
lý ra sao phải xin lỗi mình để chạy
đi tìm ông sếp. Ông sếp vào phòng lục lọi
một lúc lâu mới tìm được một con dấu bụi
mù, to tướng, bằng nửa
trang hộ chiếu
để đóng. Chuyện là Vanuatu miễn thị
thực cho hầu hết
các nước, và mọi khi nước nào không miễn cho Việt Nam thì cũng thường không miễn cho người anh em chí cốt Trung Quốc, nên hộ chiếu
xanh ngọc bích và hộ chiếu
đỏ tiết
canh là đôi bạn thân. Thế mà lần
này Trung Quốc lại được
miễn, nên cái con dấu đặc
biệt kia quanh năm chẳng bao giờ được
dùng là phải. Cả anh đóng dấu lúc đi và lúc về đều
khẳng định
đời các anh chưa thấy
cái hộ chiếu
Việt Nam bao giờ. Vậy
là cộng đồng
Việt Nam ở đây ít hơn mình tưởng,
hoặc là đã mang hộ chiếu
khác, còn các bác đi công tác có lẽ
không đến lượt
các anh đóng dấu.
Mình xong thì đã là người
cuối cùng và cũng là chuyến bay cuối cùng trong ngày lúc 10 giờ tối.
Hai anh xuất nhập cảnh
tắt điện
đi về, mấy
anh soi chiếu an ninh không
đợi được,
tắt máy về trước,
còn mỗi bà chị kiểm
dịch hỏi
mình có mang thức
ăn gì không, mình thật
thà khai có hai quả
bơ thế
là bị bảo
tự ra đằng
kia vứt vào sọt rác (phải đứa
nào gian chắc chỉ vứt
giả vờ
cũng xong). Ra đến
sảnh thì nhân viên cả sân bay còn phục vụ
mỗi mình. Đổi tiền
xong thì anh bên trong cũng tắt
điện, ra đến ngoài taxi thì cả sân bay tắt điện
luôn!
Hôm sau đi ăn sáng, vào quán đồ ăn nhanh, mình đang định gọi
cái đùi gà với ít khoai tây
thì giật mình vì trên thực đơn
có ghi món “nem”. Nem nhé, chứ không phải chả
giò. Cái món nem ở
đây, dù đầu bếp là Tây hay Ta thì cũng cuốn trong bánh đa nem (bánh tráng) chứ không có kiểu gói vỏ bột
mì như spring roll – chả giò ở
bên Úc. Lại nhớ chuyện
một anh Tây học tiếng
Việt ngoài Hà Nội, ngồi
ăn ở chợ
bến Thành kêu một đĩa nem, người bán dọn ra đĩa nem chua. Ăn vào phải nhè vội, thế
là anh học được
thêm từ mới
“chả giò”. Hôm về Hà Nội
ăn bánh cuốn, anh tự tin gọi hai suất chả
giò, chị bán hàng đon đả bưng
ra: một đĩa chả, một
đĩa giò.
Từ
“nem” đã đi vào ngôn ngữ
địa phương
để
gọi món ăn Việt Nam truyền thống
này. Ảnh: Đặng
Thái
Trên con phố
chính nhộn nhịp
của thủ
đô, mình nhanh chóng tìm được
quán ăn Việt Nam duy nhất với
những người
phục vụ
bàn là người bản xứ
da sẫm màu. Mình nhận ra ngay khuôn mặt Việt
Nam của anh chủ quán. Vậy mà anh đã là thế hệ
thứ tư
sinh ra ở Vanuatu, nhưng kinh ngạc hơn
cả là tiếng Việt
của anh vẫn cực
kỳ lưu loát như
người trong nước mà tiếng Pháp thì nghe qua không thể biết
là người Việt. Tiếng
Việt được
coi như thứ
di sản văn hóa quý giá nhất, nên các gia đình nào ở đây mà có hai vợ chồng
đều là người Việt thì họ luôn cố gắng
để con cái nói tiếng Việt
tốt nhất
có thể.
Phở
dọn ra chỉ có tương
ớt chứ
không có tương đen. Trong thực đơn
có ba món nem là “nem tôm”, “nem cá” và “nem lợn”(!?). Mình ăn hết bay một đĩa nem, một bát phở, một
bán bún. Ở nhà mà ăn thế thì ông cụ sẽ
chửi là “tục”. Nhưng nước
dùng phở, mà nhất là bát bún sao mà ngon quá, tưởng như lâu lắm
rồi không được nếm thứ
gì tương tự. Có đi khắp Úc Đại Lợi,
Huê Kỳ hay Gia Nã Đại
cũng không tìm được
một hàng nào bán thứ nước
dùng chua dịu ấy. Ăn hai miếng, chẳng hiểu
sao lại cảm
thấy mình đang ngồi ăn dưới trưa nắng,
ở vỉa
hè, của một
gánh hàng rong trên một
con phố rợp
bóng cây tên là Hoàng Tích Trí. Lắm
khi ăn một bát bún chạy ba quãng đồng cũng bõ.
Đĩa nem ở
Port Vila. Ảnh: Đặng Thái
*
_______________
Nguồn:
soi.today
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét