Thứ Tư, 16 tháng 5, 2018

Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội (P.8)

 Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội

Tác giả Chitto - phuot.vn

Phủ Chúa

Lúc này tại Thăng Long, bên cạnh Hoàng thành, một công trình to lớn nữa được dựng lên, là Phủ chúa Trịnh. Hoàng thành vốn rộng lớn nhưng không được tu sửa, vì vua chỉ ngồi làm bù nhìn, làm gì có quyền, có tiền mà sửa sang xây cất. Trong khi đó Phủ chúa thì ngày càng được xây dựng to đẹp, xa hoa đẹp đẽ.

Phủ chúa Trịnh nằm sát phía dưới hồ Gươm, từ cửa phủ nhìn ra hồ Gươm nằm ở bên trái, nên được gọi là hồ Tả Vọng. Quanh hồ, chúa Trịnh cho dựng nhiều công trình để vui chơi, duyệt binh, ngắm cảnh.

Sau này khi họ Trịnh sụp, Lê Chiêu Thống đã đốt sạch Phủ chúa, cháy trong 3 ngày mới tắt, cả khu đất trở thành hoang phế, điêu tàn, rồi người Pháp mới dựng các khu phố Pháp ở đây. Phủ chúa có lẽ nằm ở khu các đường Tràng Thi đến Nguyễn Du ngày nay.

Phủ chúa Trịnh trong bản đồ cổ

Các phố mang chữ Hàng

Diện mạo ngày nay ta còn biết về Thăng Long chủ yếu là từ đời Lê. Hầu hết các con phố cổ ngày nay còn tên được đặt từ thời này.

Thời Lý, Trần, khu mua bán sầm uất của Thăng Long nằm ở phía Tây, bên dưới hồ Tây, tức là ở khu Thụy Khuê, Hoàng Hoa Thám ngày nay, dân cư cũng tập trung ở đó. Phía Đông của Thăng Long còn rất thưa thớt.

Nhưng sau thời Minh đô hộ, khu thị dân đó điêu tàn. Đến khi triều Lê giành lại giang sơn, thì hàng chục làng nghề khắp đất nước tụ hội về phía Đông của hoàng thành, tạo nên khu phố cổ, với hàng chục phố mang chữ "Hàng" rất nổi tiếng, đa số còn giữ được đến nay. Các phố mang chữ Hàng còn trải rộng ra khắp khu vực Thăng Long, chứ không chỉ tập trung ở khu phố cổ quận Hoàn Kiếm.

Một số phố Hàng ở phía Nam, nay đã bị đổi tên:

- Phố Hàng Cỏ (nay là Lê Duẩn): nơi cung cấp cỏ cho voi ngựa
- Phố Hàng Lọng (khúc trên Lê Duẩn):
- Phố Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng)
- Phố Hàng Cơm (nay là Quốc Tử Giám): nơi có nhiều hàng cơm bán cho sĩ tử học tại Quốc Tử Giám
- Phố Hàng Cháo (nay là ngõ Hàng Cháo): cháo nấu từ bột. Bột, Cơm, Cháo đứng gần nhau một cụm
- Phố Hàng Đẫy (nay là đoạn Nguyễn Thái Học gần Trịnh Hoài Đức)
...
Một số đường phố đời Lê vẫn còn giữ được tên đến nay như phố Thợ Nhuộm nơi có nhiều thợ nhuộm vải, phố Khâm Thiên nơi đặt Khâm Thiên giám.

Chùa Trấn Quốc và đê Cố Ngự

Chùa Khai Quốc xưa dựng từ thời Lý Nam Đế ngoài bãi sông Hồng, đến đời Lê Thái Tông đổi tên là chùa An Quốc. Năm 1615, bãi sông lở, nên dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng giữa hồ Tây, đổi tên là chùa Trấn Quốc.

Hòn đảo này xưa kia các vua Lý, Trần đều dựng cung điện để nghỉ ngơi vui chơi, nằm chơi vơi giữa mặt nước mênh mông, bình minh hoàng hôn đều tuyệt đẹp. Nay dời chùa vào đảo, mặt chính chùa quay sang phía Tây, hướng về đất Phật, khi ra chùa phải đi bằng thuyền, cập bến rồi đi lên lễ Phật.

Khoảng năm 1620, để giữ cá ở góc Đông của hồ Tây, dân quanh vùng đắp một con trạch bằng đất ngăn góc hồ lại. Chúa Trịnh thấy thế liền cho đắp con trạch nhỏ đó thành con đê có thể đi ngựa xe được để đi chơi, thành ra con đường Cố Ngự (Cố = con đê, ngự = ngăn ra, chia ra). Con đê này đi gần qua đảo có chùa Trấn Quốc, nên đắp luôn con đường nhỏ nối ra, để không phải đi thuyền. Có điều con đường lại từ phía sau chùa, cho nên làm vòng ra phía trước, xây tường bịt phía sau.

Về sau, đường Cố Ngự bị đọc chệch thành Cổ Ngư, và là đường Thanh Niên ngày nay. Đường vào chùa Trấn Quốc trước kia vòng ra mặt trước, nay cũng bị sửa thành ra chui vào phía sau, mất đi nguyên bản.

Chùa Trấn Quốc trên đảo Cá Vàng, tu sửa đời Lê


Con đê Cố Ngự phía bên phải, hòn đảo bên trái là phường Ngũ Xã, ảnh từ trăm năm trước

Những dấu tích vui chơi của chúa Trịnh vẫn còn lại đến nay qua các địa danh.

Con đường ở phía Tây thành Thăng Long, xưa gọi là Tây Giai (Tây Nhai), lúc này chúa Trịnh cho trồng toàn liễu, nên gọi là Liễu Giai.

Ở phía Đông, một con đường khác được trồng toàn cây hòe, nên gọi là Hòe Giai (Hòe Nhai).

Sát bờ hồ Tây, chúa cho trồng toàn bàng, để khi mùa đông sang, lá bàng đỏ rực trong ánh hoàng hôn, mùa xuân xanh non trong nắng sớm, là cảnh đẹp tuyệt vời.

Trong khu vườn thượng uyển cũ phía Tây, đắp lại gò đất, trồng nhiều cây Sưa để mùa xuân ra hoa trắng, nên gọi là Sưa sơn.

Nay các rặng liễu, hòe, bàng đều không còn, nhưng tên Liễu Giai, Hòe Nhai vẫn còn đó. Núi Sưa nay nằm trong Bách Thảo. Các gốc sưa từ thời đó cũng đã mất, nhưng vẫn có vài cây trồng sau này. Ngọn núi Sưa đó về sau lại bị gọi nhầm là núi Nùng.

Thờ Mẫu

Dưới triều Lê, một hệ thống tín ngưỡng mới phát triển, là tín ngưỡng thờ Mẫu. Dù truyền thống tôn thờ các vị nữ thần đã có từ rất xa xưa, với việc thờ các nữ thần mưa Tứ Pháp, các nữ thần núi non như Quốc mẫu Tây Thiên, Hậu thổ phu nhân, Tổ mẫu Âu Cơ,... tuy nhiên đến đầu thời Lê mới chính thức thành điện thờ Mẫu.

Bắt đầu từ Nam Định, với huyền thoại Mẫu Liễu Hạnh, tín ngưỡng thờ Mẫu nhanh chóng lan rộng khắp đất nước, hệ thống hoá thành Tam toà Tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh, Minh Không trong Tứ Bất tử, và có nhiều huyền thoại ở khắp nơi.

Tại Thăng Long, phố Hàng Trống trở thành nơi tạo tác một dòng tranh thờ tín ngưỡng Mẫu. Tranh thờ Hàng Trống khác với tranh dân gian Đông Hồ, vì chuyên về các nhân vật thần thánh trong Đạo giáo và thờ Mẫu, màu sắc cũng sặc sỡ hơn, nhiều chi tiết cầu kì hơn.

Một bức tranh thờ Hàng Trống, theo trật tự từ trên xuống:
- Trên cùng là Phật bà Quan Âm, với Kim đồng, Ngọc nữ hầu hai bên
- Tứ Đế của Đạo giáo, bốn vị Đế ở bốn phương
- Tam toà Thánh Mẫu: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải
- Năm vị Quan lớn
- Bốn vị Chầu Bà
- Mười hai chầu

Phủ Tây Hồ

Khi nhà Lê Trung Hưng cùng họ Trịnh giành lại được Thăng Long từ nhà Mạc, triều Lê phái trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan sang sứ Trung Quốc.

Giai thoại kể rằng khi trở về từ Trung Quốc, vào khoảng những năm 1598, Phùng Khắc Khoan đã gặp tiên tại Lạng Sơn, mà vị tiên đó chính là Thánh mẫu Liễu Hạnh. Ông bèn cho xây ngôi đền thờ Mẫu tại Lạng Sơn, nay chính là chùa Tiên.

Sau đó, khi về Thăng Long rồi, trong một chuyến du hành chơi vòng quanh hồ Tây, tại một quán nước bên bờ hồ, ông đã gặp lại Tiên chúa Liễu Hạnh, dưới hình dáng người con gái bán nước xinh đẹp. Hai bên làm thơ xướng hoạ rất tương đắc. Mấy hôm sau trạng Bùng quay lại thì không còn gặp ai nữa, nên lập một am nhỏ để tưởng nhớ.

Nơi trạng Bùng gặp Mẫu Liễu Hạnh, được dựng lên thành một ngôi đền thờ lớn, gọi là Phủ Tây Hồ, là nơi thờ Mẫu sớm nhất ở Thăng Long. Ngày nay đây là nơi thờ Mẫu lớn nhất của Hà Nội, cũng là nơi linh thiêng bậc nhất.

Người phuơng Tây

Khu phố buôn bán ở Thăng Long không chỉ có các thương nhân, thợ thủ công người Việt, mà còn có các thương nhân người Hoa, người Mã lai, và đặc biệt người phương Tây.

Những thương nhân phương Tây đầu tiên đến Thăng Long là người Hà Lan, sau khi đã giao thương ở phố Hiến. Họ mang đến các sản phẩm phương Tây, thuốc súng, đồng hồ,... và mua hương liệu, đồ sứ, tơ lụa. Khi đó người Hà Lan chiếm được đảo Đài Loan, từ đó toả ra khắp vùng. Họ giao thương với cả chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Sau này chúa Nguyễn gây khó khăn, nên người Hà Lan giao thương với Thăng Long nhiều hơn.

Khi đó người phương Tây đều được gọi chung là người Tây Dương.

Đỉnh cao của sự giao lưu với người Hà Lan, đó là khi vua Lê Thần Tông lấy một bà vợ người Hà Lan ! Tài liệu ghi rằng người phụ nữ đó là con của vị Phó quan của Hà Lan ở Đài Loan với vợ người Triều Tiên, cô gái tên là Orona. Tuy nhiên cũng không có thông tin gì thêm về bà vợ ngoại quốc này của vua. Đó là vị vua Việt đầu tiên lấy vợ phương Tây (sau này còn mấy vua nhà Nguyễn nữa). Nhưng đó cũng không phải là bà vợ nước ngoài duy nhất của Lê Thần Tông, vì ông còn có 1 bà người Thái, 2 bà người Hoa nữa.

Tượng vua Lê Thần Tông và hai trong số nhiều bà vợ của vua, tại Thanh Hoá. Đây là ảnh sưu tầm.

Chùa Bộc

Quanh khu vực Đống Đa, còn nhiều di tích của Chiến thắng Kỷ Dậu.

Chùa Bộc, vốn tên là Sùng Phúc, dựng từ đời Lê, nằm ngay trong khu vực chiến sự ác liệt, nên bị đốt cháy hoàn toàn. Sau đó vua Quang Trung cho dựng lại chùa, làm nơi cúng tế các vong hồn quân Thanh cũng như quân Việt đã chết trận. Lại vì Sầm Nghi Đống treo cổ tự tử gần đó, cũng được coi là một người có nghĩa khí, nên Quang Trung cho cúng tế luôn tại chùa. Cái tên chùa "Bộc" cũng mang nghĩa là phơi ra, bày ra, có từ sau khi dân gian thấy xác giặc chết phơi khắp nơi quanh chùa.

Bên cạnh chùa Bộc có hồ rộng, là nơi sau khi chiến thắng, Quang Trung cho voi xuống tắm, nên gọi là hồ Tắm tượng. Giờ đây hồ chỉ còn là một ao nhỏ, vẫn gọi là ao Tắm tượng. Trong chùa còn có tượng thờ lén Quang Trung, sẽ nói sau.

Ao Tắm tượng trong chùa Bộc ngày nay

Chùa Đồng Quang

Một ngôi chùa Bộc cúng tế cho các vong hồn xem ra không đủ, vì số người chết nhiều quá.

Sau này, đối diện gò Đống Đa, người dân dựng thêm một ngôi chùa nữa, là chùa Đồng Quang, để thờ cúng tất cả các vong hồn của các thi thể tìm được rải rác khắp nơi quanh đó. Trong chùa dựng một khu đàn tế riêng để cúng tế vong linh chết trận, vùi thây nơi gò Đống Đa. Ngày nay chùa bị lấn chiếm nhiều, khu đàn tế thu hẹp, dựng toà điện Địa Tạng để cúng các vong hồn.

Am Vạn Linh

Người ta thường hay nói đến số quân Thanh bị đánh tan là 29 vạn (theo như bài vân ca ngợi của Ngô Thì Nhậm), hoặc 20 vạn (như ghi chép của giáo sĩ phương Tây). Trong khi nhà Thanh thì chỉ chịu công nhận là chết có 2 vạn. Nhiều nguồn khác nhau đưa ra những con số khác nhau. Chỉ biết khi Tôn Sĩ Nghị chạy về đến Quảng Đông thì chỉ còn một nửa quân.

Nhưng bên cạnh số quân Thanh chết trận, người ta thường cố tình quên đi số lính Việt cũng đã tử trận. Có bao nhiêu người đã chết, không sách nào nói đến.

Số lính Việt chết trận được đưa về một khu nghĩa địa chung, cũng chôn chung một chỗ. Người dân lập am Vạn Linh, làm đàn tế để cúng. Chỉ cái tên Vạn Linh cũng có thể thấy số lượng cũng không ít vong hồn. Về sau cạnh am Vạn Linh lập thành chùa, tức là chùa Kim Sơn ngày nay. Vì thế vào ngày 5 Tết, trong khi tại Gò Đống Đa làm lễ hội rầm rộ vui mừng, thì tại chùa cũng làm lễ cúng tế các vong hồn oan khuất trong chiến trận.

Chùa Kim Sơn trên đường Kim Mã, là đất bãi nghĩa địa Vạn Linh xưa kia.


Tượng chùa Bộc

Nguyễn Ánh lên ngôi, tức là vua Gia Long, đã trả thù nhà Tây Sơn một cách tàn bạo nhất có thể. Tất cả những gì liên quan đến Quang Trung đều cố gắng xoá bằng sạch. Mọi người liên quan đến "Nguỵ Huệ" đều bị xử tội, mọi văn bản đều bị tiêu huỷ, mọi cung điện đều bị san bằng, mồ mả bị khai quật. Các đời sau là Minh Mạng, Thiệu Trị cũng vẫn tiếp tục, ai cất dấu di sản Tây Sơn, thờ cúng nhà Tây Sơn đều bị giết cả nhà.

Ấy thế nhưng chính trong sự đàn áp đó, ở ngay giữa Thăng Long lại có một pho tượng thờ Quang Trung được tạo dựng, đó là pho tượng ở chùa Bộc.

Ở ngôi chùa miền Bắc nào cũng có pho tượng Đức Ông, tức là vị thần bảo vệ chùa. Pho tượng Đức Ông chùa Bộc được tạc rất đặc biệt, chân phải bỏ ra khỏi giày, co lên thoải mái, tay cầm vạt áo. Bên dưới lại có hai vị quan ngồi hầu cũng trong tư thế lạ lùng, như đang ngồi bàn việc với Đức Ông. Bên trên có một chữ "Tâm", và bốn chữ "Uy phong lẫm liệt".

Điều đặc biệt hơn, là hai bên tượng có đôi câu đối, mà câu bên trái là "Quang trung hoá Phật, tiểu thiên thế giới chuyển phong vân". Bốn chữ "Quang trung hoá phật" trong kinh Phật để ca ngợi Phật A Di Đà, hoá thân trong ánh hào quang chói lọi. Tuy nhiên nếu đọc theo cách khác thì lại có thể hiểu là vua Quang Trung đã hoá Phật (đã qua đời), cả nghìn thế giới đều chuyển mây gió (để tiễn đưa).

Chính vì cách chơi chữ này nên mặc dù treo ngay trước mặt quan quân triều Nguyễn, không ai phát giác ra.

Đến cách đây mấy chục năm, khi di chuyển tượng, mới phát hiện dòng chữ "... tạo Quang Trung tượng" dấu đằng sau bệ tượng, khẳng định đây chính là tượng thờ Quang Trung. Đây có lẽ là pho tượng thờ lén đặc biệt nhất của Hà Nội.

Thờ lén Lê Ngọc Hân

Lê Ngọc Hân được phong là Bắc Cung hoàng hậu, nhưng có bà Chính cung hoàng hậu mới là mẹ của Quang Toản. Ngọc Hân có được hai con, một trai một gái thì Quang Trung qua đời, khi đó hoàng hậu mới 22 tuổi. Sử sách không ghi, nhưng cũng có thể đoán là bà không được sung sướng gì khi bà Chính cung và Quang Toản nắm quyền, nên ba mẹ con phải rời khỏi cung mà ra ở một ngôi chùa cạnh mộ Quang Trung. Để rồi 7 năm sau Ngọc Hân cũng mất khi mới 29 tuổi. Hai người con của bà trong loạn lạc cũng chết khi mới trên 10 tuổi.

Tây Sơn sụp đổ, Gia Long cho san phẳng mộ ba mẹ con. Mẹ của Lê Ngọc Hân là bà Chiêu nghi vợ vua Lê Hiển Tông, dù triều Lê lẫn Tây Sơn đã đổ, vẫn còn gia sản điền trang ở Ninh Hiệp. Thấy con gái chết tha hương, mới sai người lén vào Huế đào lấy xương cốt con và hai cháu, đem về làng mình chôn cất. Mộ Ngọc Hân nằm giữa, hai con nằm hai bên, lại đổi tên mà lập đền thờ, để lại ruộng hậu cho dân làng cúng tế.

Hơn 30 năm sau, có kẻ tố giác việc "Nguỵ hậu" được mồ yên mả đẹp, có người cúng tế hẳn hoi. Thế là vua Thiệu Trị sai quan phá huỷ đền, đào mộ Ngọc Hân và hai con lấy xương cốt vứt xuống sông, đào đất xung quanh đổ đi, san bằng để cỏ mọc hoang.

Truyền thuyết nói rằng hài cốt Ngọc Hân trôi ra sông Hồng, đến gần bến Bồ Đề thì nổi lên. Người dân rước vào bãi sông chôn kĩ rồi lập đền thờ lên trên. Nhưng để che dấu, họ phải nói là đền thờ Mẫu Thoải. Ngày nay đó chính là đền Ghềnh, gần chùa Bồ Đề. Pho tượng Mẫu Thoải trong hậu cung của đền chính là tượng Lê Ngọc Hân.

Lòng người Bắc hà với triều Tây Sơn là như thế. Trong thời nhà Nguyễn trả thù Tây Sơn, ở khắp miền đất nước có nơi nào được như thế chăng ? Bà Chính cung hoàng hậu, vua Quang Toản, trên đất miền Trung, miền Nam, trong thời Nguyễn, chẳng có nơi nào dám thờ cúng.

Đền Ghềnh, nơi thờ lén hoàng hậu Lê Ngọc Hân

Gia Long và Thăng Long

Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, niên hiệu Gia Long, diệt Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn, thống nhất đất nước sau 300 năm chia cắt. Lần đầu nước Việt trải dài từ Móng Cái đến Cà Mau. (Trước đó Quang Trung cũng rất muốn thống nhất đất nước, nhưng do ông anh trai Nguyễn Nhạc cũng xưng hoàng đế giữ Quy Nhơn, không thể loại bỏ anh được). Kinh đô đặt tại Huế.

Ở Trung Quốc vừa trải qua triều Càn Long, đang là triều Gia Khánh, phải chăng vì thế mà Nguyễn Ánh chọn hiệu là Gia Long ?

Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long cầu phong với Trung Quốc, xin cái tên nước là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh thấy tên đó của Triệu Đà ngày xưa gồm cả Lưỡng Quảng, nên mới đổi là Việt Nam. (Nhưng đến 1820 thì Minh Mạng lại đổi là Đại Nam).

Năm 1804, vua Tàu sai sứ sang phong Gia Long làm An Nam quốc vương. Đó là cuộc lễ nghi rầm rộ nhất của Thăng Long trong triều Nguyễn. Hoàng cung triều Lê mà trung tâm là điện Kính Thiên được trang hoàng rực rỡ để đón nhận "Long đình", nơi Gia Long nhận quả ấn bạc "An Nam quốc vương chi bảo".

Nhưng ngay sau buổi đại lễ đó, cái tên Thăng Long thì chữ Long là Rồng đã bị đổi sang Long là hưng thịnh (cũng là chữ Long trong Gia Long). Tuy nhiên trừ chữ viết trên giấy tờ, thì cách đọc không đổi. Phủ Phụng Thiên bị xoá bỏ, vì tại Kinh thành Huế đã có phủ Thừa Thiên. Thăng Long là thành Trấn Bắc, quản lý toàn bộ miền Bắc, lập ra các Tào tương tự như các bộ ở Huế để quản lý mọi việc. Tổng trấn Bắc thành có quyền rất lớn, tự chủ trong nhiều việc.

Phá hoàng thành

Năm 1805, Gia Long xoá phủ Phụng Thiên, phá hoàn toàn Hoàng thành của triều Lê.

Vì ở Huế xây dựng Kinh thành và Hoàng thành, nhưng quy mô nhỏ hơn thành Thăng Long, nên Gia Long bắt hạ toàn bộ hoàng thành, thay đổi cả La thành ở Thăng Long, sao cho phải nhỏ hơn, thấp hơn ở Huế.

Thế là toà thành cổ với những nền móng có từ thời Lý - Trần đã bị triệt hạ hoàn toàn. Trong khu hoàng thành cũ, triều Nguyễn cho xây một toà Trấn thành mới nhỏ hơn, theo kiến trúc Vauban, cũng là kiến trúc thành Huế. Quanh toà Trấn thành đào hào, lấy nước sông Tô Lịch đổ vào. Các cung điện trong Hoàng thành của triều Lê, ngoại trừ điện Kính Thiên được để lại làm Hành cung khi vua ra Bắc, còn thì đều bị dỡ sạch. Gỗ đá còn tốt thì đem về Huế để dựng cung điện tại đó.

Tại phía Nam của Trấn thành Vauban, toà Cột cờ cao gần 40 m được xây dựng, trở thành công trình cao nhất tại đây trong hơn trăm năm. Kiến trúc cột cờ này còn gặp ở thành Bắc Ninh, Sơn Tây, Nam Định.

Vòng thành ngoài cũng bị thu hẹp lại. Toàn bộ phần phía Tây của thành Thăng Long, nơi có dinh thự các quan, tập trung quân lính, voi ngựa bị loại bỏ, trở thành bên ngoài vòng thành mới. Các cổng thành trở thành các Cửa ô, mà đến nay chỉ còn duy nhất một cửa.


Bản đồ thành Thăng Long vẽ thời Nguyễn, sau khi vòng thành ngoài bị thu hẹp, và Hoàng thành cũ bị phá, thay vào đó là Trấn thành kiểu Vauban mới. Sông Tô Lịch vẫn chảy ngang, đổ ra sông Hồng ở Hà Khẩu

Các cửa ô

Trước kia La thành triều Lê có bao nhiêu cửa, không có ghi chép rõ.

Đến khi nhà Nguyễn quy hoạch lại Thăng Long, bỏ phía Tây đi, thì có đến hơn 20 cửa, từ đời Lê các cửa thành ngoài đã gọi là các cửa ô. Đến đầu những năm 1900 ghi chép còn lại tên chính thức của 16 cửa ô. Vì có các cửa ô nên mới có khái niệm Nội ô và Ngoại ô.

Từ Ngoại ô thì sau được dùng phổ biến khắp cả nước, mặc dù hình như chả có nơi nào dùng từ Cửa ô cả.

Một toà thành nếu nhằm mục đích quân sự, thì không thể mở nhiều cửa đến thế, nhưng vòng ngoài thành Thăng Long lúc này (từ 1831 đổi là Hà Nội) mang tính hành chính, dân sự nhiều hơn. Các cửa được xây vòm, có lầu ở trên, là để kiểm soát dân chúng ra vào. Còn quân đội thì đóng trong Trấn thành.

Vị trí của các cửa ô còn được ghi lại tên chính xác thời Nguyễn màu đỏ, màu xanh là tên dân gian vẫn còn lại đến nay. Có thể thấy ô Cầu Giấy xưa của triều Lê đã nằm xa bên ngoài vòng thành triều Nguyễn. Nhiều cửa ô bị thay đổi tên vài lần.

Trấn thành
Vua Gia Long, vốn có giao thiệp với người Pháp từ sớm, rất chuộng kiểu thành của Thống chế Vauban người Pháp, nên kinh thành Huế, Trấn thành Thăng Long ở phía Bắc, Trấn thành Gia Định ở phía Nam, và một số thành khác đều xây kiểu này. Thành Vauban có tường thành liên tục nhô ra thụt vào, để dễ dàng đứng trên bắn xuống yểm trợ cho nhau.

Trấn thành được thu hẹp từ Hoàng thành, đào hào bốn phía, lấy nước Tô Lịch đổ vào. Thành gần hình vuông, mỗi chiều dài khoảng 1,3km, tường cao khoảng 4m, hào rộng 15m. Dưới chân thành xếp đá, trên xây tường gạch, ở giữa đổ đất. Có 5 cửa thành, phía Nam có 2 cửa là Tây Nam và Đông Nam. Trong số đó chỉ Cửa Bắc là còn lại đến nay. Cửa Đông ứng với phố Cửa Đông, cửa Tây Nam là khu Cửa Nam hiện nay. Cửa cao hẳn lên, khoảng 10m, trên xây lầu.

Các cung điện triều Lê, trước đó cũng đã bị tan hoang trong chiến tranh, nay bị phá dỡ hết. Chỉ còn lại Đoan Môn, điện Kính Thiên, lầu Tĩnh Bắc là để lại. Phía Nam dựng Cột cờ làm đài quan sát. Các chỗ khác làm nơi đóng quân, dựng nha sở cho các quan lại.

Toà trấn thành này cũng bị người Pháp phá nốt năm 1895.

Tràng Tiền

Các triều đại mới lên, chắc chắn đổi niên hiệu, cùng với đó là đúc và ban hành tiền mới. Trong dân chúng thường lưu hành tiền của nhiều niên hiệu, loại bằng đồng thì giá trị hơn tiền bằng kẽm, và tích trữ lâu năm không hỏng.

Ở Đàng Ngoài có mỏ đồng, nên việc đúc tiền không khó khăn, nhưng Đàng Trong không có, nên phải mua hoặc thu thập đồng từ các nơi đúc tiền. Triều Lê xưởng đúc tiền đặt ở khu Nhật Chiêu (nay là Nhật Tân) và ô Cầu Dền. Thời Quang Trung đúc tiền nhẹ hơn nên lưu thông rất rộng và tiện.

Nguyễn diệt Tây Sơn, thành Huế tan hoang, phường đúc ở Huế ly tán hết. Do đó vua Gia Long phải cho đúc tiền tại Thăng Long, sau đó mới đúc ở Huế. Năm 1808, khu đất phía Đông Nam hồ Hoàn Kiếm được dùng làm xưởng đúc tiền, gọi là Bảo Tuyền Cục, bên ngoài có lính canh gác cẩn mật. Để tránh tình trạng ăn cắp, nhà Nguyễn chỉ cho phụ nữ vào làm, cuối ngày đi ra lính gác lại kiểm tra, tạo nên những chuyện thị phi.

Khu xưởng đúc tiền đó, vì thế được gọi là Trường Tiền, hay Tràng Tiền.

Sau này người Pháp phá xưởng đúc tiền, mở con phố Tây mà nay là phố Tràng Tiền.

Những đồng Gia Long thông bảo, gồm tiền đồng và tiền kẽm

Tràng Thi

Văn Miếu là biểu tượng của Nho giáo, thì Thi cử chính là Thiết chế của Nho học. Chế độ khoa cử của ta bắt chước Tàu, khỏi nói. Có ba kì thi: Hương, Hội, Đình.

Các sĩ tử được quan địa phương xác nhận mới được đăng kí một kì thi sát hạch tại các trấn (sau là tỉnh), qua được kì sát hạch thì mới bước vào thi Hương. Thi Hương gồm 4 vòng thi, mỗi vòng làm bài trong 1 ngày từ sáng đến tối. Thi xong vòng nào chấm luôn vòng đó, qua rồi mới được vào vòng trong. Kì thi Hương vì thế kéo dài cả tháng. Ai chỉ qua được 3 vòng thì là Tú tài, qua được cả 4 là đỗ thi Hương, là Cử nhân (hương cống).

Thi Hội tổ chức tại kinh đô, cũng gồm 4 vòng, qua được cả 4 mới vào thi Đình, đỗ mới thành Tiến sĩ (hoàng giáp, ông nghè), còn nếu không lại trở về làm ông Cử nhân mà thôi.

Thi Hương tổ chức ở một số tỉnh lớn, thi Hội ở Kinh đô, thi Đình ngay trong cung vua. Thời Lê, tại Thăng Long thì trường thi Hương ở khu Quảng Bá, trường thi Hội ở phía Thủ Lệ, bản đồ Hồng Đức ghi rõ là Hội thí.

Khi Thăng Long không còn là kinh đô, nhà Nguyễn dời trường thi Hương về phía Tây Nam của hồ Hoàn Kiếm, gọi là Trường Thi - Tràng Thi. Ngày nay là khu Thư viện Quốc gia.

Tràng Thi chỉ là bãi đất trống có đánh luống để sĩ tử cắm lều che mưa nắng, đặt cái chõng trong cái lều đó làm bài trong 4 vòng (nên gọi chung là "lều chõng"). Có các chòi cao để giám thị đứng trên trông xuống. Vì ba năm mới thi một lần, nên lúc không có thi, bãi đó vẫn cho dân vào cày cấy trồng trọt bình thường.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa


Cảnh trường thi Hương ở Nam Định năm 1897, trường thi ở Thăng Long thì cảnh quan cũng y như thế


Tháp Rùa

Tháp Rùa xuất hiện giữa hồ Gươm vào năm 1883, ngay khi Pháp bắt đầu cai trị Hà Nội.

Gò Rùa, còn được gọi là Quy Sơn, là gò đất nổi phía Nam hồ Gươm. Thời hồ Gươm còn thông với sông Hồng, khi nước lên còn ngập cả gò. Sau này hồ tách biệt, ngày mưa to gò cũng lấp xấp nước, xưa nay vốn không có công trình gì.

Sách cũ ghi ông Bá hộ tên là Kim, một người có làm việc cho Pháp, đã xin phép toà Đốc lý và xây cái tháp ba tầng. Hai tầng dưới theo kiến trúc Tây, cửa vòm nhọn, tầng trên cùng bé lại, mái lợp ngói kiểu ta, đắp bốn con rồng quay ra bốn phía. Ngọn tháp tuy thấp, kiến trúc lạ lùng, nhưng lại rất vừa vặn với khung cảnh hồ Gươm, trở thành một điểm nhấn rất hài hoà.

Mục đích của Tháp Rùa để làm gì không được rõ. Có giai thoại cho rằng đó là do Bá hộ Kim muốn táng mộ bố mình vào đó để được phát, những người thợ đã vứt hài cốt xuống hồ. Tuy nhiên giai thoại đó cũng rất có thể là do người ta ghét Bá hộ Kim làm việc cho Pháp mà đặt ra, chứ không có thật.

Một ngọn tháp "không đáng gọi là tháp", không mang ý nghĩa lịch sử văn hoá nào, thế nhưng trăm năm qua vẫn đứng đó, thân thuộc vô cùng. Đến nỗi năm 1992, chỉ mới quét nước ximăng lên bên ngoài làm tháp trông mới hơn mà người Hà Nội đã sôi sùng sục lên rồi, nếu tưởng tượng một ngày trên gò Rùa tháp biến mất, thì không hiểu sẽ thế nào?

Hình ảnh Tháp Rùa đã đi vào nghệ thuật, và vào tâm trí của người biết và yêu Hà Nội sâu sắc đến không thể thay thế.

Trăm năm trước


Có người đã tìm thấy sự tương đồng tỉ lệ hình học của Tháp Rùa khá thú vị. Tôi không biết tác giả là ai, thấy ảnh trên mạng nên cắt bớt phần rườm rà, gửi lên mọi người cùng xem.

Tuy nhiên, có thể thấy kết quả là do sự hài hoà và đối xứng trong kiến trúc nói chung, chứ không phải chủ ý của người xây, chẳng hạn hai vòng tròn và hai ngôi sao bên dưới nhỏ hơn vòng tròn và ngôi sao trên cùng (vì 2 vòng đó không chạm được vào cánh của ngôi sao lớn)...


_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn

Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội (P.7)

Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội

Tác giả Chitto - phuot.vn

Chiêm Thành 4 lần phá Thăng Long

Hết thời Dụ Tông u tối lại đến loạn Dương Nhật Lễ. Em trai vua lấy người con hát làm thiếp, khi đó người này đã có mang với một người họ Dương, sinh ra đứa con là Dương Nhật Lễ, ai cũng biết là không phải họ Trần. Thế mà bà Hoàng thái hậu lại nhất quyết lập đứa cháu nhận vơ để làm vua, để rồi bị chính Dương Nhật Lễ giết chết luôn ! Trần Nghệ Tông giành lại ngôi thì trong nước loạn rồi.

Nhân thấy nhà Trần loạn, năm 1371, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân ngược sông đánh vào Thăng Long. Vua Trần vội bỏ chạy. Quân Chiêm tha hồ cướp bóc của cải, bắt người, kho tàng cái gì cướp được thì cướp, không thì đốt sạch. Nhiều sách cổ, sổ sách của Đại Việt cũng ra tro.

Năm sau, vua Trần Duệ Tông đem quân đi rửa hận, mắc mưu Chế Bồng Nga, bị giết tại Đồ Bàn. Lần đầu tiên Đại Việt có một vị vua chết trận.

Thấy nhà Trần yếu lắm rồi, quân Chiêm liên tục tấn công, và đánh chiếm Thăng Long liên tiếp vào các năm 1377, 1378, 1388. Trong 17 năm mà Thăng Long thất thủ và bị cướp đến 4 lần, vua Trần chỉ lo mang của cải đi chôn dấu và bỏ chạy, làm hổ mặt là hậu duệ của Đức Thánh Trần.

Thế là sau 3 lần thất thủ trước quân Nguyên Mông hùng mạnh từ phía Bắc, 80 năm sau, Thăng Long lại 4 lần thất thủ trước quân Chiêm Thành từ phía Nam. Dường như là điềm báo cho thời kỳ đen tối nhất của Thăng Long sắp đến.

Cái con rồng đời Trần đầy vẻ thoả mãn này sắp giãy chết...


Thăng Long thành Đông Đô

Trần Nghệ Tông u tối, đem cơ nghiệp đặt cả vào tay người anh họ ngoại là Hồ Quý Ly, lại gả bà chị ruột nữa.

Hồ Quý Ly xây thành Tây Giai ở Thanh Hoá, gọi là Tây Đô, năm 1396, dời cả triều đình về đó. Thăng Long mang tên là Đông Đô, nhưng không còn là kinh đô nữa. Năm 1400, Quý Ly phế ông vua triều Trần cuối cùng (cũng là cháu ngoại mình), lên làm vua. Trong thời thuộc Minh, có hai vị tôn thất nổi dậy xưng đế, nhưng không giành được độc lập, cho nên coi như nhà Trần kết thúc năm 1400 này.

Nhà Trần kết thúc sau 175 năm với 12 đời vua, trong đó chỉ có 2 vua được đặt tên phố tại Hà Nội ngày nay, là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. (năm 2010 đặt thêm phố Trần Thái Tông)

Các danh nhân họ Trần dười triều Trần có tên phố: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư, Trần khát Chân.

Các danh nhân khác: Chu Văn An, Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh Chi, Đặng Dung, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Trương Hán Siêu, Hàn Thuyên, Nguyễn Biểu.

Truyền thuyết Hồ Quý Ly

Có một truyền thuyết về Hồ Quý Ly, rằng khi còn hàn vi, có lần ông đọc được trên bờ sông dòng chữ ai đó viết trên bờ cát "Quảng Hàn cung lý nhất chi mai" (Cung Quảng Hàn có một cành mai), thấy hay nên nhớ trong lòng.

Đến khi làm quan nhà Trần, một lần theo vua Trần đi chơi điện Thanh Thử, vua thấy có nhiều gốc quế đẹp quá, ra câu đối: "Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế" (Điện Thanh Thử phía trước có nghìn cây quế), Hồ Quý Ly bỗng nhớ câu thuở xưa trên bờ cát, đối lại, thành ra một đôi câu đối rất hoàn chỉnh:

Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng Hàn cung lý nhất chi mai


Điều đặc biệt là vua Trần có cô công chúa tên là Nhất Chi Mai rất được yêu chiều, sống tại một cung mà vua thường hay gọi là Quảng Hàn (cũng là tên cung của Hằng Nga trên cung Trăng). Vua hỏi sao nghĩ ra câu đó thì Hồ Quý Ly cứ thành thực mà trả lời. Vua cho rằng có duyên nên gả công chúa Nhất Chi Mai cho Hồ Quý Ly, từ đó ông ngày càng vinh hiển.

Câu truyện trên là một truyền thuyết đẹp, tuy nhiên điện Thanh Thử ở đâu, cung Quảng Hàn là cung nào, công chúa Nhất Chi Mai là ai thì trên thực tế không rõ ràng.

Sự thực lịch sử là Hồ Quý Ly có hai bà cô đều làm phi của vua Minh Tông, một bà sinh ra vua Nghệ Tông, một bà sinh ra vua Duệ Tông. Nghệ Tông có bà chị là công chúa Huy Ninh, goá chồng, nên vua làm mai cho Hồ Quý Ly luôn, thành ra Hồ Quý Ly vừa là anh đằng mẹ, vừa là anh rể. Rồi lại cưới con gái Hồ Quý Ly cho con trai vua, thành ra lại còn là thông gia. Lằng nhằng thế nên quyền về tay Quý Ly hết.

Vị vua cuối cùng triều Trần bị Hồ Quý Ly phế bỏ cũng chính là cháu gọi ông ta bằng ông ngoại.

Thăng Long thương đau

Họ Hồ dời đô vào thành Tây Đô, và giặc Minh sang xâm lược, năm 1407 Thăng Long thất thủ, Hồ Quý Ly bị bắt sang Tàu, đi đày làm lính, gia tộc họ Hồ và quan lại bị bắt về Minh. Đại Việt mất về tay giặc Minh.

Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên bị Tàu bắt, lại sợ chết không dám tự tử, chịu nhục nhã để sống đời lao dịch ở Tàu. Hai con của ông thì đi theo làm quan cho Tàu.

Hồ Nguyên Trừng nổi tiếng về chế tạo súng thần công nên nhà Minh trọng dụng. Người ta vẫn ca ngợi đó trí tuệ người Việt, riêng tôi thấy chả hay ho chút nào. Trí tuệ đó không giúp nước, giúp vua cha, mà sau lại đi giúp quân giặc, làm quan cho giặc. Bao nhiêu khẩu súng thần công nhà Minh chĩa bắn vào người dân Việt đều có phần của Nguyên Trừng đó !!!

Trong thời loạn, có hai tôn thất nhà Trần nổi lên làm vua, xưng đế là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Trần Ngỗi thì bị giêt trong chiến trận, còn Trần Quý Khoáng bị giặc bắt giải về Bắc, đã nhảy xuống biển tự tử, chứ không chịu nhục như Hồ Quý Ly để cầu sống. Các tướng lĩnh của ông cũng oanh liệt tử tiết chứ không chịu nhục để bị giải về Tàu. Con cháu nhà Trần như thế vẫn còn giữ được khí tiết oai hùng của cha ông.

Từ đây bắt đầu giai đoạn 20 năm đau thương khi giặc Minh đô hộ Đại Việt, trị sở đóng tại Thăng Long, nhưng bị đổi thành Đông Quan.

Con rồng triều Hồ, một con rồng đã mất đầu. Cái oai của nó chỉ còn nằm khoe với ruộng lúa mà thôi. Cái tội để cho đất nước rơi vào tay giặc, đều được quy cho Hồ Quý Ly, vì quá tham quyền vị mà để mất lòng dân, làm tan tác tinh thần đoàn kết của người Việt.


Hoàn Kiếm

Năm 1428, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi sau khi vị vua giả tạm là Trần Cảo đã (bị bức) chết. Công của nhà Lê giành lại giang sơn người dân Việt không bao giờ quên, kể cả sau này khi con cháu họ Lê suy đồi thì người dân vẫn vì ơn trước mà luôn ủng hộ.

Truyền thuyết ý nghĩa nhất về Lê Lợi là huyền thoại trả gươm, mà mỗi người dân Việt đều biết. Dưới thời Lý Trần, khu vực Đông của Thăng Long không được chú trọng nhiều, và hồ nước ở đó gọi là hồ Lục Thuỷ, thông với sông Hồng. Hồ có tên đó do màu nước xanh đặc biệt. Vua Lê đi thuyền từ sông Hồng có thể vào hồ, từ đây lên chùa Báo Thiên. Tại đây Lê Lợi đã trả lại gươm thần Thuận Thiên cho rùa vàng, gửi lại Long Quân. Từ đó hồ có tên là Hoàn Kiếm.

Trong hầu hết tài liệu ghi nguồn gốc tên hồ đều viết: "Sau đó hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm", điều này không phù hợp, bởi cái tên hồ Tả Vọng mãi đến mấy trăm năm sau Lê Lợi mới có !

Cũng không rõ truyền thuyết trên xuất hiện ngay sau khi Lê Lợi lên ngôi hay không, vì sử sách đời Lê vẫn ghi tên hồ là Lục Thuỷ, hoặc Thuỷ Quân, sau đời Chúa Trịnh lại có tên là Tả Vọng, chứ không ghi tên Hoàn Kiếm. Có vẻ như cái tên Hoàn Kiếm được trở thành phổ biến và chính thức từ cuối Lê đầu Nguyễn.

Ngày nay, bên phía Tây hồ Hoàn Kiếm, phố Lê Thái Tổ, có đền thờ Lê Lợi, và bức tượng đồng của vua đứng cầm gươm chĩa xuống hồ, đứng trên một cây cột đá. Tượng được dựng năm 1888, cây cột được làm theo kiểu phương Tây. Không nhiều người để ý đến di tích này.


Điện Kính Thiên

Triều Lê tiếp quản một Đông Quan đổ nát, được gọi lại là Đông Đô, nhưng vẫn song song với tên Thăng Long.

Hàng chục ngôi chùa, đền, đạo quán triều Lý Trần được nhắc đến trong sử, từ đời Lê về sau không còn thấy tên nữa, có lẽ đã bị phá huỷ hết rồi. Những chùa như Chân Giáo, Đại Giáo, Hưng Thiên, Vạn Tuế, Thiên Quang, Thiên Ðức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Thọ, Linh Quang, Sùng Nghi, Tư Thánh, Thiên Minh, Thiên Thành, các đạo quán Thái Thanh, Cảnh Linh, Linh Tiên, Ngũ Nhạc... đều mất dấu.

Ngọn tháp Báo Thiên bị phá đổ rồi, nhưng chùa vẫn còn, vẫn là chùa lớn nhất Thăng Long.

Hoàng cung cũng tan hoang. Vì vậy triều Lê phải dựng lại gần như toàn bộ. Tại nơi trung tâm, thiêng liêng nhất của Thăng Long, khi xưa là điện Càn Nguyên đời Lý, sau đổi là Thiên An, cũng bị phá huỷ. Lê Thái Tổ đã dựng lại điện chính của triều đình tại đây, đổi là điện Kính Thiên, là toà điện quan trọng nhất của Hoàng cung.

Chín bậc đá thềm điện Kính Thiên đời Lê, trải hơn năm trăm năm biến đổi...
(So với thềm điện Thái Hoà ở Huế sau này, bậc thềm này đẹp hơn rất nhiều. Thăng Long cũng không sử dụng những tên gọi rập khuôn bắt chước y sì Trung Quốc kiểu Ngọ môn, Ngũ Phụng, Thái Hoà như triều Nguyến dùng ở Huế)


Con rồng đời Lê

Con rồng đầu đời Lê đầy sức mạnh, hùng dũng oai hùng, thể hiện khí phách của một thuở Bình Ngô !

Phía sau đầu rồng vẫn là lớp bờm dài uốn sóng giống triều Lý, Trần, Hồ, chân cuộn cơ bắp, sừng dài uy lực. Những con rồng đẹp mạnh mẽ thế này về sau không còn nữa. Rồng đời sau mang đầy vẻ tròn trịa hiền hoà, và càng ngày càng giống rồng Trung Quốc. Đặc biệt rồng đời Nguyễn thì y hệt rồng Tàu, không còn mang được dáng vẻ nào riêng cả.

(Chòm râu dưới cằm rồng được chân trước nắm chặt, nay đã bị vỡ mất)

Đoan Môn

Hoàng thành thời Lê chia làm ba khu chính: Khu phía Đông làm Thái Miếu và Đông cung (cho Thái tử ở), ở giữa thì phía Nam là khu dành cho các toà trụ sở các Bộ, nơi tổ chức thi Đình, làm các lễ mang tính cộng đồng. Khu phía trong là Chính điện và nơi ở của Hoàng gia.

Giữa khu ngoài và khu trong là cửa lớn Đoan Môn, Đoan nghĩa là Chính giữa, chính thống. Cửa này xây đời Lê, bên dưới toàn bằng đá, trổ 5 cửa. Cửa giữa cho vua, hai bên cho quan và hoàng tộc, hai bên nữa cho lính, bên trên có lầu. Cửa hình chữ U, với hai cánh quay vào trong phía điện Kính Thiên.

Triều Nguyễn, gần 400 năm sau cũng làm Ngọ Môn theo kiến trúc tương tự, nhưng với kích thước lớn hơn, sử dụng chủ yếu là gạch, và hướng của hai cánh hai bên quay ra ngoài. Lúc đầu cửa ở Huế cũng gọi là Đoan Môn, sau đó mới đổi là Ngọ Môn cho nó ... giống Tàu. Cửa Đoan Môn ở Thăng Long chỉ là cửa nằm giữa, phân tách nửa ngoài Hoàng thành với Cấm thành, còn cửa Ngọ Môn ở Huế là cửa vào Hoàng thành.

Vì Đoan Môn nằm giữa Hoàng thành, nên từ trên có thể nhìn bao quát cả Hoàng thành, với các cơ quan ở phía Nam, Thái Miếu phía Đông, Cấm thành phía Bắc.

Góc chụp này quá hẹp do bên trái có cái nhà của quân đội choán mất. Nay cái nhà ấy đang được phá đi, hi vọng sửa sang xong, có thể thoải mái chụp trực diện.


Chùa Huy Văn

Trong các ngôi chùa ở Thăng Long, chùa Huy Văn chỉ là chùa nhỏ nhưng lại có ý nghĩa rất đặc biệt, là nơi ra đời của vị vua được coi là văn võ toàn tài bậc nhất Việt Nam.

Lê Thái Tổ mất rồi, con là Thái Tông nối ngôi, khi 16 tuổi đã có con trai đầu, năm sau có con thứ hai, và năm 19 tuổi thì bà phi Ngọc Dao có mang. Cùng lúc đó bà phi được sủng ái là Nguyễn Thị Anh cũng có mang, dèm với vua xin đem bà Ngọc Dao giết đi. May nhờ Nguyễn Trãi xin giúp mới đổi từ án tử sang bị giam ở chùa Huy Văn. Tại đây, bà Ngọc Dao đã sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành năm 1442.

Thái Tông mất khi 20 tuổi tại Lệ Chi Viên, trở thành vụ thảm án oan khốc nhất lịch sử, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Vua Nhân Tông nối ngôi, rồi lại bị anh cả giết chết. Các đại thần lại giết luôn ông vua mới cướp ngôi, mà đưa Lê Tư Thành lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.

(Lê Thánh Tông giết nốt ông anh trai còn lại, thế là 3/4 con trai của Thái Tông đều bị giết; bản thân Thái Tông cũng đã từng giam anh ruột đến chết, mà chính Thái Tông cũng chết mờ ám, có thể do bị giết. Những vua đầu triều Lê tàn hại nhau như thế...).

Lê Thánh Tông lên ngôi rồi, nhớ đến nơi mình sinh ra là chùa Huy Văn, nên cho dựng điện Dục Khánh ở đó. Sau bà Ngọc Dao mất thì chuyển điện thành đền thờ bà.

Trong chùa ngày nay thờ cả Lê Thái Tông, hoàng hậu vợ Lê Thái Tổ (mẹ Thái Tông, bà nội Thánh Tông), Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ.

Ngày nay điện Dục Khánh chùa Huy Văn thờ vua Thánh Tông, bà Thái hậu Ngọc Dao, và bà hoàng hậu Trường Lạc. Pho tượng Lê Thánh Tông này cũng có lai lịch chìm nổi, nguyên là ở chùa Khán Sơn trên Khán Sơn, đến đời Tây Sơn thì chùa này bị phá nên mới đem về chùa Huy Văn để thờ. Tượng Thái hậu Quang Thục (tức bà Ngọc Dao) trước để ở chính giữa điện, đến lúc đó lại để sang bên cạnh.


Chùa Ngọc Hồ

Lê Thánh Tông không chỉ là vị vua văn võ toàn tài, mà còn là bậc quân tử đa tình, đã được gặp tiên.

Truyện rằng ở phía Nam hoàng thành, gần Quốc Tử Giám có chùa Ngọc Hồ là ngôi chùa đẹp, Lê Thánh Tông ngự thăm chùa. Tại đây vua gặp một người đẹp ngâm thơ, cùng đối thơ xướng hoạ, rất lấy làm hợp ý. Vua muốn đón nàng về cung, nhưng khi kiệu đi đến Cửa Nam thì cô gái biến mất. Lúc bấy giờ mới biết là gặp tiên nữ, vùa bèn cho xây một cái lầu ngoài Cửa Nam, gọi là lầu Vọng Tiên để trông ngóng.

Lầu Vọng Tiên đã bị phá lâu rồi, nhưng chùa Ngọc Hồ ngày nay vẫn còn đó, trên phố Sinh Từ (Nguyễn Khuyến). Khuôn viên đã bị thu hẹp rất nhiều, cảnh trí khác xưa nhiều lắm, nhưng vẫn còn đó câu truyện vua gặp tiên, rồi sau đó là truyện Tú Uyên gặp tiên...

Bích Câu đạo quán

Lê Thánh Tông không phải là người duy nhất gặp tiên ở chùa Ngọc Hồ, mà còn có chàng thư sinh Tú Uyên.

Truyện "Bích Câu kỳ ngộ" kể rằng chàng tú tài tên là Trần Uyên, nên thường gọi là Tú Uyên, văn thơ tao nhã, một lần ra chơi chùa Ngọc Hồ, ngồi nghỉ dưới gốc cây bỗng có chiếc lá đề thơ bay ngang mặt, vội nhặt lên xem, đồng thời nhìn ra thấy có người con gái rất đẹp. Tú Uyên làm quen, nói chuyện văn thơ với cô gái, đi đến tận lầu Quảng Văn thì cô gái biến mất. Tú Uyên về nhà sinh ốm tương tư.

Chàng đến đền Bạch Mã cầu xin, đêm nằm thấy thần bảo sáng ra chợ Cầu Đông mà tìm. Hôm sau ra chợ Cầu Đông, gặp ông già bán tranh, bức tranh Tố nữ vẽ y hệt người đẹp đã gặp, bèn mua về treo trong nhà, ngày ngày trò chuyện, mời cơm. Thế rồi mấy hôm sau về thấy cơm canh đã sẵn, chàng rình thì thấy cô gái từ trong tranh bước ra. Tú Uyên giữ lại, xé tranh đi, hỏi tên thì là tiên Giáng Kiều, hai người nên vợ chồng.

Nhưng có vợ rồi Tú Uyên đâm ra bê tha, chỉ thích rượu chè đàn hát. Giáng Kiều khóc rồi bay về trời. Tú Uyên hối hận đau khổ, định tự tử nên Giáng Kiều quay lại, rồi dạy chồng cách tu tiên. Về sau hai người cưỡi hạc bay về trời.

Nền nhà cũ của Tú Uyên khi xưa, ngày nay thành Bích Câu Đạo quán, là một trong hai ngôi Đạo quán của Thăng Long xưa còn giữ nguyên được, không bị đổi thành chùa.

Bích Câu đạo quán trên phố Cát Linh, xung quanh đã bị lấn chiếm làm nơi buôn bán.

Đền Kim Liên

Sau thời Lê Thánh Tông rực rỡ, nhà Lê suy đồi nhanh chóng. Lê Uy Mục lên ngôi liền giết ngay bà nội (là vợ Lê Thánh Tông), làm nhiều điều bạo ngược, đến nỗi bị gọi là Vua quỷ.

Lê Oanh đem quân về giết Uy Mục, tự lên làm vua tức là Lê Tương Dực, bị gọi là Vua Lợn, tham tàn chả kém vua trước. Trong sử ghi rằng Tương Dực cho làm lại thành Thăng Long, đắp thành chắn cả sông Tô Lịch, dựng tòa Cửu trùng đài hùng vĩ, sai Vũ Như Tô làm điện trăm nóc, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, dân tình kêu than.

Do đó khắp nơi lại nổi loạn, quan ngay trong triều giết Tương Dực (khi đó mới 24 tuổi), Thăng Long đại loạn, cướp phá khắp nơi. Của cải triều Lê tích trữ trong trăm năm bị cướp sạch. Chỉ vài năm sau, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dựng lên nhà Mạc.

Tương truyền Lê Tương Dực khi khởi quân đánh Uy Mục, nằm mộng thấy thần Cao Sơn hứa phù trợ, nên sau khi lên ngôi cho dựng ngôi đền thờ ở phía Nam thành Thăng Long, tức là đền Kim Liên ngày nay (dựng mới hay trên nền ngôi miếu nhỏ cũ của làng thì cũng chưa rõ). Đến lúc này ngôi đền "trấn Nam" của Thăng Long mới được xuất hiện trong sử sách.

Tuy nhiên trong các bản đồ Thăng Long thời Trịnh sau cũng không thấy vẽ đền này, chứng tỏ cũng không phải là quan trọng. Cho nên cái thuyết "Tứ Trấn Thăng Long" có lẽ còn xuất hiện muộn nữa, có khi phải từ cuối Lê đầu Nguyễn mới có.

Đền Trấn Nam - Kim Liên, mới có từ đời Lê Tương Dực (1510)


( còn tiếp )
_______________
Nguồn: Chitto - phuot.vn

Phim tài liệu Mùa đông 1991

Phim tài liệu Mùa đông 1991 Bộ phim tài liệu "Mùa đông năm 1991" phân tích về sự tan rã của Liên Xô - sự kiện được coi là “thảm họ...

Popular Posts