Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018

Dân tộc Do Thái (P.3)

 

Dân tộc Do Thái  

Phần 3

 

Vậy George Soros là ai?

Sinh ngày 12-8-1930 tại Hungary. Tuổi thơ của nhà tỷ phú này gắn liền với những ngày kinh hoàng khi phát xít Đức tàn sát người Do Thái trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Khi còn nhỏ, ông được dạy rằng người Do Thái có thể chạy chứ không được lẩn trốn!

Cha của Derd Shorosh (tên khai sinh của G. Soros) là luật gia từng nghĩ cách giúp những người gốc Do Thái thoát khỏi Hungary (đang bị Đức quốc xã chiếm đóng) bằng cách làm cho họ hộ chiếu giả. Khi ấy chính Derd mang các hộ chiếu giả này đi giao.

Năm 1947, gia đình họ sang Anh và Derd Shorosh đổi tên thành George Soros. Công việc ban đầu của ông tại đất nước này là bồi bàn ở một hiệu ăn sang trọng ở London, khi cả gia đình đang phải sống bằng trợ cấp xã hội. 18 tuổi, với số tiền kiếm được bằng nghề thu hoạch táo và sơn nhà thuê, George Soros ghi danh vào Học viện kinh tế London. Sau giờ học, ông còn phải làm người gác đêm ở một ga tàu hỏa.

G. Soros thích thú với quan điểm của triết gia Karl Popper trong Xã hội mở và các kẻ thù của nó. Sau khi tốt nghiệp năm 1952, G. Soros quyết định hiện thực hóa những tư tưởng của Popper: kiếm tiền để biến thế giới thành xã hội mở.

Năm 1956, Soros tới Mỹ khởi nghiệp với 5.000 USD ban đầu từ vị trí nhân viên môi giới tại hãng tài chính F.M. Mayer và là nhà phân tích cho Wertheim and Company cho tới giữa những năm 1960. Phương châm của Soros khá đặc biệt: trong kinh doanh, việc đúng hay sai không quan trọng, cái quan trọng là nếu đúng sẽ có được bao nhiêu tiền, và nếu sai sẽ mất bao nhiêu tiền.

Trong thời gian này, Soros nghiên cứu một triết lý đầu tư của riêng mình có tên oreflexibity (tạm dịch: cơ chế phản xạ), với quan điểm cách định giá thị trường của chính những người tham gia thị trường sẽ tác động tới giá trị đã được xác định trên cơ sở sổ sách. Đây về sau trở thành nguyên lý cơ bản của hoạt động của các quỹ đầu cơ do Soros điều hành.

Năm 1973, Soros từ bỏ vị trí phó chủ tịch một tập đoàn đầu tư tại New York và lập hãng đầu tư riêng,về sau hãng này chuyển đổi thành Quỹ Quantum. Ông tuyên bố muốn kiếm đủ tiền từ thị trường tài chính để hỗ trợ sự nghiệp viết sách và nghiên cứu triết học của mình, và dự kiến mỗi năm kiếm được 500.000 USD là chấp nhận được. Nhưng hoạt động đầu tư của Soros sau này chủ yếu được gắn liền với Soros Fund Management. Quantum Fund, mỗi năm mang tới cho các cổ đông của nó hơn 30% lợi nhuận. Khả năng phân tích và phán đoán chính xác các dao động trên thị trường tài chính mang tới cho ông ta hàng triệu, thậm chí hàng tỉ USD, cùng với biệt danh Mozart của TTCK

Quỹ Quantum của ông ta bao gồm một loạt nhà đầu tư lắm tiền, nhiều của thường kiếm lợi qua đầu cơ, gây mất ổn định các đồng tiền nước ngoài. Thủ đoạn chính của Soros là mua vào, bán ra các loại ngoại tệ mạnh để kiếm lời. Chẳng thế mà với số vốn ban đầu chỉ có 6 triệu USD năm 1969 đến năm 1999, Quantum đã có 5,5 tỉ USD.

Có vài lần tài phán đoán này làm Soros xính vính: tiên đoán sự sụp đổ của các công ty Internet nên Soros đã sớm bán cổ phiếu của các công ty dotcom năm 1999. Nhưng các dotcom tiếp tục phát triển. Nhận ra sai lầm, Soros lại mua lại cổ phiếu để cuối cùng bán ra không kịp lúc các dotcom sụp đổ: thiệt hại lên tới gần 1 tỉ USD! Hay phi vụ với đồng tiền chung châu Âu euro. Nhà tài chính đã tiên đoán khả năng tăng giá của euro, nhưng do đổi USD sang euro quá sớm nên Soros mất hàng trăm triệu USD. Tuy nhiên nhìn chung Soros vẫn thắng lớn.

Giới quan sát cho rằng: Soros và quỹ của ông ta là tác nhân chính làm chao đảo Ngân hàng Trung ương Anh năm 1992, gây ra sự đổ vỡ của đồng rúp Nga năm 1998 và cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997.

Giới tài chính quốc tế ghi nhận những vụ đầu cơ lớn chưa từng có của George Soros lần đầu tiên khi ông bị nghi ngờ dính líu tới vụ đổ vỡ của thị trường chứng khoán Nhật Bản năm 1990. Trong vụ này, Hãng đầu tư Salomon Brothers là thủ phạm khởi động nền kinh tế bong bóng vào mùa đông năm 1989 và cũng chính hãng này làm nó đổ vỡ hoàn toàn vào năm 1990. Người ta cho rằng George Soros chính là một trong những đồng tác giả bởi quan hệ khá mật thiết giữa ông và Salomon Brothers.

Thủ thuật làm ăn của Soros đã tạo ra một loại đầu cơ mới - đầu cơ trên qui mô toàn cầu. Ông ta có thể điều khiển hàng tỉ USD và đánh vào nền kinh tế của cả một quốc gia như đã làm với đồng bảng Anh năm 1992.

Vào ngày Thứ tư Đen tối 16/9/1992, Soros đột nhiên trở nên nổi tiếng khi bán khống lượng bảng Anh có giá trị tương đương trên 10 tỷ USD, và kiếm lợi từ việc Ngân hàng Trung ương Anh do dự lựa chọn hoặc nâng lãi suất nội tệ lên ngang bằng với lãi suất tại các nền kinh tế khác trong Tổ chức sử dụng chung cơ chế tỷ giá châu Âu, hoặc thả nổi đồng nội tệ.

Cuối cùng, Ngân hàng Trung ương Anh buộc phải rút đồng bảng Anh ra khỏi cơ chế tỷ giá hối đoái châu Âu và phá giá đồng bảng. Soros kiếm được khoảng 1,1 tỷ USD trong phi vụ này và được biết đến với biệt danh kẻ phá hoại ngân hàng trung ương Anh. Những người thân cận của Soros có lần tiết lộ, khi thấy những điểm yếu của đồng bảng trong thời điểm đó, Soros đã hối thúc những người dưới quyền tận dụng lợi thế của mình chuẩn bị cho cuộc tấn công vào đồng tiền này. Tuy nhiên, đồng GBP còn tiếp tục xuống giá sau đó nên cuối cùng George Soros kiếm được gần 2 tỷ USD.

Cả thế giới biết đến Soros như kẻ làm mất uy tín của một trong những đồng tiền có giá trị bậc nhất thế giới. Không những làm mất giá đồng bảng Anh, chiến dịch đầu cơ của Soros còn gây ảnh hưởng hàng chục đồng tiền châu Âu khiến EU phải hoãn đưa đồng euro vào lưu hành mất năm năm.

Cú tấn công thứ hai là với đồng yen của Nhật. Từ giữa năm 1995, đồng yen liên tục tăng giá so với USD - từ 128 yen chỉ còn 78 yen ăn 1 USD vào hè năm 1996. Chính quyền Nhật can thiệp để đưa tỉ giá đồng yen trở về vị trí cũ nhằm làm cho hàng Nhật rẻ hơn và dễ cạnh tranh hơn. Soros bèn mua đồng yen với giá 1 USD = 110-120 yen rồi bán nó khi tỉ giá là 1 USD = 80-90 yen. Lời 20%, Soros bổ sung vào tài khoản công ty ông ta vài tỉ USD! Thành công khiến ông ta có lúc tuyên bố: sẽ chỉ tha không đánh duy nhất một đồng tiền, đồng forint của Hungary, nơi G. Soros từng là Derd Shorosh!

Trong cuộc chơi của mình, có lúc Soros đã vượt lằn ranh. Năm 1988, Soros nhận được lời đề nghị tham gia nắm giữ ngân hàng khổng lồ của Pháp Société Générale. Soros từ chối, nhưng sau đó mua một lượng cổ phần của ngân hàng này trước khi thông tin về việc chuyển nhượng ngân hàng được công bố rộng rãi. Một năm sau, giới chức Pháp bắt đầu điều tra về vụ việc. Năm 2002, ông ta bị một tòa án Paris buộc tội sử dụng thông tin mật để thủ lợi và bị phạt 2,2 triệu euro. Đó là sự trừng phạt cho việc ông ta sử dụng khả năng tiếp cận một số thông tin mật để trục lợi từ các cổ phiếu chứng khoán của Ngân hàng Société Générale gần 2 triệu USD khi ngân hàng này bị tư hữu hóa năm 1987.

Khi 50 tuổi tôi đã có trong tay hơn 30 triệu USD. Sau đó tôi tự hỏi: mình cần nhiều tiền như thế để làm gì Ý nghĩa của nó là đâu Thế là tôi thành lập quĩ - Soros trả lời như thế về các loại quĩ mang tên ông ta khắp thế giới. Nhà triệu phú thì xài tiền, còn nhà tỉ phú phải làm nên lịch sử?. Với phương châm này, năm 1969 Soros thành lập quĩ từ thiện đầu tiên, và tới năm 2003 đã có hơn 50 quĩ của Soros trên toàn thế giới.

Khi đã trở thành một nhà tỷ phú, Soros bắt đầu hoạt động từ thiện và sống suy tưởng hơn. Ông được mệnh danh là nhà hoạt động từ thiện quốc tế tích cực nhất của thế kỷ 20. Nhưng Soros là một nhà từ thiện đặc sệt kiểu Mỹ, ông không tài trợ tiền vào các nhà thờ, bảo tàng... mà ông rót tiền vào những quỹ học bổng giáo dục. Ông cũng có thể cam kết rút tiền túi giúp những người nhập cư ở Mỹ 50 triệu đôla nếu ông thấy chính quyền có những chính sách không công bằng với cộng đồng người nhập cư. Soros chủ trương phát triển dân chủ trên thế giới.

Mặc dù là một người Do Thái, ông không e ngại khi nói rằng ông tẩy chay Israel. Ông đã phát biểu rằng với tư cách là một người Do Thái, ông không tìm thấy niềm tin có thể khiến ông ủng hộ Israel. Soros là một người tiên phong đấu tranh vì tự do và dân chủ và ông không công nhận Israel là một nước có nền dân chủ. Tuy vậy, phần lớn những đối tác làm ăn của Soros là người Do Thái.

Giữa thập niên 1980, một thông tin làm Soros quan tâm: tổng bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev đưa người bất đồng chính kiến Andrei Sakharov từ tù đày trở về. Nhận ra những thay đổi sắp chín muồi, Soros tới Nga để chi phối việc thành lập hệ thống chính trị mới. Ông ta thành lập một số quĩ dưới những tên gọi khác nhau, một trong số này là Viện Xã hội mở.

Trong 15 năm, quĩ này tài trợ cho nền khoa học đang chật vật của Nga và các trung tâm Internet cho sinh viên, trường dành cho trẻ em nghèo và các viện mồ côi. Nhưng Soros không chỉ làm từ thiện. Ông ta xây dựng quan hệ với G. Yavlinski, B. Federyov và V. Potanin, những người mà ông ta đánh giá có thể làm thủ tướng Nga.

Nhưng nước Nga cũng đã từng là nạn nhân của George Soros trong cuộc khủng hoảng tài chính tháng 8/1998 khi giới đầu cơ quốc tế tấn công vào đồng Rúp. Ông đã đưa ra nhưng lời bình luận không có lợi khiến ngay trong giờ đầu tiên giao dịch, chỉ số chứng khoán Nga đã tụt 12%. 5 ngày sau đồng Rúp đã mất tới 25% giá trị. Năm 1998 cũng là một năm thất bại của George Soros, ông đã mất 2 tỷ USD trong một vụ vỡ nợ tại Nga

Ngày 17-11-2003, phát biểu trên Đài phát thanh quốc gia Tbilisi, Tổng thống Gruzia E. Shevardnadze đã công khai chỉ trích Quĩ G. Soros tại nước ông vì đã tài trợ cho một số thế lực đối lập, trong đó có phong trào thanh niên Kmara. Tuy nhiên, sự thức tỉnh của E. Shevardnadze quá muộn.

Soros đã chuẩn bị cho việc lật đổ E. Shevardnadze từ tháng 2-2003 khi Viện Xã hội mở của ông ta tại Tbilisi gửi một người Gruzia, 31 tuổi, tên Giga Bokeria, lãnh đạo Viện tự do, tới Serbia để học cách các thành viên của phong trào Optor (Kháng chiến) sử dụng những cuộc biểu tình trên đường phố lật đổ Tổng thống Milosevic như thế nào.

Vài tháng sau, Quĩ Soros lại chi tiền cho các thành viên Optor tới Gruzia: những người này mở một khóa đào tạo ba ngày cho hơn 1.000 sinh viên Tbilisi về cách dàn dựng một cuộc cách mạng hòa bình.

Theo Giga, ba tổ chức đóng vai trò then chốt trong việc lật đổ E. Shevardnadze là phong trào dân tộc đối lập của M. Saakashvili, Đài truyền hình đối lập Rustavi-2 và phong trào thanh niên Kmara! (Tháng 4-2003, sau khi nhận 500.000 USD từ Quĩ Soros, Kmara tuyên chiến với E. Shevardnadze và bắt đầu cuộc vận động tấn công nạn tham nhũng của chính quyền).

Đài Rustavi-2 nhận tiền của Soros từ khi thành lập năm 1995 và đã được tăng thêm tài trợ từ một năm trước khi nó bắt đầu chương trình 24 giờ chống E. Shevardnadze. Rustavi-2 công chiếu phim hoạt hình tên Our Yard trong đó Tổng thống Shevardnadze được mô tả như một kẻ lá mặt lá trái quanh co. Cũng chính Rustavi-2 đã truyền đi kết quả những cuộc thăm dò bầu cử quốc hội ngày 2-11 do các tổ chức Mỹ thực hiện, trái ngược với kết quả chính thức.

Soros còn có mối quan hệ nồng ấm với nhà đối lập chính của E. Shevardnadze là Saakashvili, một luật gia tốt nghiệp tại New York và thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống ngày 4-1-2004 và mon mem gia nhập NATO, hiện đang bị phía đối lập buộc tội đánh mất 2 vùng đất ly khai, nổi tiếng với bức ảnh rúc dưới áo vệ sỹ khi máy bay Nga lượn lờ xa xa. Năm 2003, đích thân Soros tiến cử Saakashvili nhận giải thưởng của Quĩ xã hội mở.

 

Thái Lan. Đầu năm 1997, một số quỹ đầu cơ tài chính sừng sỏ như Quantum (George Soros) hay Tiger Management Corp. (Julian Robertson) đã ký hàng loạt các hợp đồng mua bán ngoại tệ có thời hạn (bán đồng Baht Thái, với thời hạn thanh toán chậm từ 6 tháng đến 1 năm) với tổng trị giá lên tới 15 tỷ USD. Người ta đang đánh cược là trong tương lai đồng Baht sẽ phá giá. Trong bối cảnh nền kinh tế khan hiếm USD tiền mặt, những kiểu hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn như thế này rất thông dụng. Do đó đến Ngân hàng Nhà nước Thái Lan cũng cảm thấy không có chuyện gì đáng ngại, thậm chí còn xem đây là một trong những phương pháp hữu hiệu đảm bảo vốn lưu thông cho nền kinh tế.

Mãi phải đến giữa tháng 5, khi những dấu hiệu tiền khủng hoảng xuất hiện, Ngân hàng Thái Lan mới ra quyết định tạm ngừng những kiểu hợp đồng như thế, nhưng đã quá muộn. Ngày 14-15 tháng 6 năm 1997, thị trường tiền tệ ở Thái tràn ngập lệnh bán đồng Baht. Ngân hàng Nhà nước cố sức giữ giá, trong suốt 2 tuần đã chi ra gần 10 tỷ USD để mua đồng Baht và giữ tỷ giá hối đoái ở mức bình thường 25 baht 1 USD. Nhưng không ăn nhằm gì với làn sóng rũ bỏ đồng Baht loang ngày càng rộng trên khắp thế giới.

Chính phủ Thái đã vùng vẫy bằng mọi cách: từ dụ dỗ, dọa nạt, răn đe giới tài chính cũng như giới báo. Thậm chí cả làm động tác giả. Ngày 30 tháng 6, Thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh vẫn cố sống cố chết sẽ không phá giá baht, thế mà chỉ 2 ngày sau, 2 tháng 7, baht lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht/1USD. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance o­ne, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.

Tại Phippines sự kiện cũng phát triển theo một kịch bản tương tự. Duy có khác là chính phủ nơi đây đã kịp thời ngăn chặn được các đợt tấn công trực tiếp của giới đầu cơ tài chính toàn cầu. Thay vì trực tiếp ra mặt mua peso để giữ giá, chính phủ Philippines đã cho tăng lãi suất ngắn hạn (cho vay qua đêm) từ 15% lên tới 24% (03.07.1997). Cách này có hiệu quả, tuy không ngăn chặn được xu hướng mất giá đồng peso, nhưng giảm thiểu tối đa thiệt hại. Đồng peso mất giá từ: 26peso/1 USD trước khủng hoảng, xuống 38 peso/1 USD vào năm 2000. Đây được xem là một thành công lớn.

Kịch bản khủng hoảng ở các nước khác như Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông đều diễn ra với những nét tương đồng. Tuy nhiên, hậu quả thì mỗi nơi mỗi khác, phụ thuộc vào khả năng ứng phó trong điều kiện khủng hoảng của chính phủ và năng lực cũng như cơ cấu của nền kinh tế. Duy chỉ có điều ai cũng biết, thiệt hại mà khủng hoảng đưa lại cho các nước châu Á là quá lớn, dư âm của nó vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày hôm nay

Người Malaysia chắc chắn còn nhớ mối hận thù giữa cựu Thủ tướng Mahathir với nhà tỉ phú Mỹ George Soros xảy ra từ hơn 10 năm trước trong cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á 1997 - 1998. Hồi đó, tỉ phú Soros, tung hoành trên thị trường tiền tệ tại châu Á, bị tố cáo là một kẻ đục nước béo cò trong cuộc khủng hoảng.

Rõ ràng khủng hoảng tài chính châu Á 1997 hoàn toàn không ngẫu nhiên. Đó là một cuộc tấn công các nền kinh tế mới nổi, những con rồng con hổ châu Á, một cách có tổ chức. Vấn đề là ai tấn công và tấn công để làm gì? Thủ tướng Malaysia, Mahathir Mohamad, ngay sau khủng hoảng, đã chỉ mặt gọi tên thủ phạm gây ra mọi chuyện chính là các tập đoàn đầu cơ tài chính với đầu chòm là tỷ phú quốc tịch Mỹ, người Hungary gốc Do Thái George Soros.

Quả thật, G. Soros và đồng đội đã kiếm được hàng tỷ USD lợi nhuận sau vụ đầu cơ này. Bản thân G. Soros không phủ nhận việc mình đã kiếm bạc tỷ trong đợt khủng hoảng tiền tệ, Nhưng lại phủ nhận hoàn toàn động cơ của nó. Ông và các đồng nghiệp đơn gian chỉ là những nhà tài chính nhạy cảm, dám mạo hiểm và gặp may. Khủng hoảng kinh tế châu Á, theo G. Soros đó là hệ quả tất yếu báo hiệu một cuộc khủng hoảng lớn hơn nhiều ?" khủng hoảng tư bản toàn cầu.

Một luồng ý kiến thứ 2 cho rằng, G. Soros nhận nhiệm vụ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ, tạo khủng hoảng để ra đòn cảnh báo ASEAN. Còn nhớ, tháng 5-1997, có nghĩa chỉ 2 tháng trước cuộc khủng hoảng, ASEAN đã phớt lờ sự phản đối của Mỹ và EU khi chính thức kết nạp Myanma làm thành viên. Cũng có thể, nhưng chưa thuyết phục. Đơn giản là vì chế độ quân sự ở Myanma đã được thiết lập từ năm 1962. Biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra trong chừng ấy năm, biết bao nhiêu cơ hội, đâu cần chờ đến 35 năm mới ra tay.

Ông Mahathir tháng 9-1997 đã không tiếc lời mạt sát ông Soros và bị ông này trả đũa không kém ác liệt. Khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, ông Mahathir tố cáo tỉ phú Soros là kẻ nhúng tay can thiệp làm cho đồng ringgit của Malaysia suy sụp bằng thủ đoạn đầu cơ tiền. Ông Soros bị gọi là kẻ đần độn đê hèn. Ông Mahathir nói: Tất cả các nước châu Á đã vất vả trong 40 năm để xây dựng nền kinh tế của mình, vậy mà một kẻ đần độn như Soros đã ôm cả túi tiền tới đầu cơ phá tan tành mọi thứ?. Phản kích đối thủ, ông Soros tuyên bố: Lời lẽ của ông Mahathir là không đáng quan tâm. Chính ông ta, kẻ độc tài về tiền tệ, mới là mối đe dọa cho đất nước Malaysia. Ông ta phải từ chức mới phải?.

Vậy thì ai? Ai là chủ nhân đích thực của khủng khoảng? Ai là người được hưởng lợi nhiều nhất từ khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997 ?" người đó là chủ nhân. G. Soros ?" dĩ nhiên, nhưng không phải mình ông ta. Dưới đây một danh sách ngắn những công ty đã kịp thời chiếm hữu tài sản của các tập đoàn châu Á với giá bèo bọt:

- BNP Paribas thôn tính Peregrine, một trong những tập đoàn tài chính hàng đầu châu Á. Đây là kết quả của đồng rupee Indonesia bị phá giá;
- Procter & Gamble nuốt chửng Ssanyong Paper của Hàn Quốc;
- General Motors mua với giá gần như cho không Daewoo Motor;
- Prudential Securities nắm quyền kiểm soát Nava Finance & Securities;
- First Pacific vươn tay tới San Miguel, công ty bia hàng đầu của Philippines;
- Citibank định thôn tính First Bangkok City Bank nhưng chưa thành công.

Danh sách này vẫn còn có thể kéo dài nữa, rõ ràng, các chú hổ mới lớn châu Á, đang bị nhóm thợ săn dày dạn kinh nghiệm phương Tây săn đuổi với vai trò dẫn đường là các tay đầu cơ tài chính G. Soros và đồng đội. Yểm trợ phía sau chính là hai đại xạ thủ IMF và WB, với những khoản vay kèm điều kiện khắc nghiệt, mà nếu thực thi thì chỉ làm khủng hoảng ngày một trầm trọng thêm. Tài sản săn được cuối cùng sẽ được phân chia cho số đông theo danh sách kể trên, có tính đến sở thích và tích cách từng người.

Dĩ nhiên, để tổ chức một cuộc săn bắn qui mô như vậy không thể thiếu được người cầm chịch. Người đó là ai? Chẳng nhẽ lại là Mỹ - siêu cường số một thế giới? Hồ đồ, hãy học cách loại bỏ thói quen, buôn bán thua lỗ - đổ lỗi cho số phận. Thất thế trong cạnh tranh quốc tế - đổ lỗi cho nước giàu. Nước Mỹ thì được lợi lộc gì trong vụ đi săn này?

Bị khủng hoảng tài chính quần cho một trận nên thân, các nước Đông Nam Á, sau đó là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Brasil, rồi loang rộng ra tất cả các nước thuộc thế giới thứ ba, ngậm ngùi nhận ra một chân lý bất di bất dịch: muốn phòng chống được khủng hoảng tài chính phải tích trữ thật nhiều ngoại tệ. Càng nhiều càng tốt. Càng nhiều càng yên tâm. Và dĩ nhiên, đã là ngoại tệ thì không có loại nào chắc chắn bằng USD. Thế là các nước đua nhau tích trữ USD, mà không hề nghĩ rằng mình đang tự nguyện tài trợ vốn, không lãi hoặc lãi suất rất thấp cho nền kinh tế Mỹ phát triển.

Giữa tháng 12 năm 2006, 2 cựu thù gặp lại nhau sau gần 10 năm tại một khách sạn sang trọng ở Kuala Lumpur để giảng hòa và xí xóa mọi chuyện năm xưa. Hai ông bắt chặt tay nhau thân mật, tươi cười trước hàng trăm nhà báo. Trong cuộc họp báo chung kéo dài hơn một giờ, ông Mahathir, 81 tuổi và ông Soros, 76 tuổi, xin lỗi nhau về chuyện cũ và cam kết khôi phục tình bạn.Tượng trưng cho cử chỉ hòa giải, tại cuộc họp báo chung, tỉ phú Soros đã trao tặng cựu Thủ tướng Mahathir cuốn sách của ông Thời đại có thể mắc sai lầm (The Age of Fallingbility).

Mới đây nhất, quỹ đầu tư Soros Management Fund bị cơ quan quản lý Hungary, nơi Soros sinnh trưởng, phạt 2 triệu USD vì thực hiện kế hoạch đầu cơ tấn công đồng nội tệ của nước này.

Mới chỉ kể 1 mình Soros đã thấy người Do Thái tài giỏi có thể làm được gì, nữa là nhiều người Do Thái cùng làm. Soros kể cũng đáng được xưng tụng là Lã Bất Vi của Do Thái!
Đợt người Do Thái đầu tiên di cư đặt chân lên Đại lục Bắc Mỹ chỉ có 23 người, ừ Brazil, nơi bị người Bồ Đào Nha chiếm đóng theo chủ nghĩa bài Do Thái xua đuổi, đó là vào một ngày hè năm 1654, nghĩa là trước khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ra đời những 135 năm.

Tại Mỹ, lần đầu tiên người Do Thái được hưởng quyền sống của con người, được thực hiện tự do tôn giáo và dân chủ về chính trị, kinh tế chứ không bị khinh rẻ hắt hủi thậm chí xua đuổi, hãm hại như ở khắp nơi trên thế giới mà họ từng sống lưu vong suốt hai ngàn năm trước đây. Khi nước Mỹ lập quốc (1776), cộng đồng Do Thái ở Mỹ đã có 2.500 người. Tiếp đó, hàng loạt người Do Thái ở châu Âu, chủ yếu từ Đức, di cư sang Mỹ.

Năm 1841, người Do Thái đầu tiên được bầu vào Quốc hội Mỹ. Năm 1880, quần thể Do Thái ở Mỹ có khoảng 150.000 người. Cuối thế kỷ XIX, do biến động của lịch sử hàng triệu người Do Thái ở Nga và châu Âu di cư sang Mỹ. Do chịu khó lao động, học tập và có biệt tài kinh doanh buôn bán, rất nhiều người Do Thái ở Mỹ đã thành công lớn. Thập niên 30 của thế kỷ trước, đảng Quốc xã (Nazi) của Hitler điên cuồng xua đuổi giết hại người Do Thái. Số người Do Thái di cư sang Mỹ trong thời gian 1933-1945 lên đến hơn 200.000, trong đó có nhiều nhà trí thức cấp cao, khiến nước Mỹ được lợi rất nhiều.

Trước làn sóng người Do Thái dồn dập kéo đến Mỹ và thành công lớn trong kinh tế, văn hóa, những người Mỹ theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bắt đầu có tư tưởng bài Do Thái, nhất là sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917). Nhiều nhà giàu Mỹ coi chống Do Thái và chống c ộng sản là một. Đảng 3K khét tiếng dã man cũng tấn công người Do Thái như chúng đã làm với người da đen trước đây. Một số người Mỹ còn quy kết cuộc đại khủng hoảng kinh tế hồi đầu thập niên 30 là do người Do Thái gây ra. Chống Do Thái hăng hái nhất là người Mỹ gốc Đức, hồi ấy ở Mỹ đã có tới trên 100 tổ chức bài Do Thái. Sau khi nước Mỹ tham gia chiến tranh chống phát xít Đức (tháng 12-1941), dư luận Mỹ đồng tình mạnh mẽ với người Do Thái, các tổ chức chống Do Thái bị lên án.

Người Do Thái ở Mỹ là cộng đồng dân thiểu số thành công nhất trên hầu hết các mặt của đời sống nước Mỹ, khiến các cộng đồng khác phải vì nể. Người Mỹ gốc Do thái trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và văn hóa đã xuất hiện cả xê ri sao rực rỡ, trong số 200 danh nhân văn hóa có ảnh hưởng nhất nước Mỹ thì quá nửa là người gốc Do thái. 1/3 số giáo sư giảng dạy tại các trường đại học danh giá nhất nước Mỹ, ¼ số luật sư Mỹ là người gốc Do thái. Trong số hơn 100 người Mỹ vinh dự được nhận giải thưởng Nobel các loại thì chiếm nửa là người gốc Do thái. Isaac Bashevis Singer giải Nobel văn học năm 1978 là người Do Thái từ Ba Lan di cư sang Mỹ, nhạc sĩ Irving Berlin, hai anh em George và Ira Gershwin, nhà bác học Albert Einstein, nhà sáng chế vắc-xin chống bệnh viêm tủy xám Jonas E. Salk.

Sau hơn 300 năm kể từ ngày ấy, tính tới cuối thập niên 90 thế kỷ trước, tổng số người Mỹ gốc Do thái đã tròm trèm 6 triệu người, chiếm chừng 3% tổng nhân khẩu, ảnh hưởng của họ đối với mọi mặt xã hội Mỹ như chính trị, kinh tế, văn hóa, dư luận v.v đều vượt xa bất kỳ cộng đồng hậu duệ dân tộc nào trong nước Mỹ.

Người Do thái sở dĩ có nền tảng chính trị ổn định vững chắc tại nước Mỹ, bởi có tương quan mật thiết với bối cảnh kinh tế hùng mạnh của họ. Trên bảng liệt kê những người giàu có bậc nhất do tạp chí Forbes Mỹ công bố, thì trong số 40 người đứng đầu bảng đã có tới 16 vị là người Do thái. Trong số các tinh anh tiền tệ phố Wall có quá nửa là người Do thái, người sáng lập ra các công ty danh tiếng như Anh em Lehmann, Google, Intel v.v đều là người Do thái. Nổi danh hơn cả là Allan Greenspar 17 năm làm Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ; con Cá sấu tiền tệ Soros; Vua chứng khoán Warren Buffett, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Paul Wolfowitz và người tiền nhiệm James D. Wolfensohn, và nhiều ông chủ các tập đoàn tài phiệt lớn của Mỹ đều là người mang huyết thống Do thái.

Các tỷ phú này không trực tiếp tham dự vào guồng máy chính trị Mỹ, mà là thông qua các khoản để tiền quyên góp để Telecontrol (Điều khiển từ xa). Tại nước Mỹ hiện có tới trên 80 Ủy ban hành động chính trị? Do thái chuyên điều phối nhịp nhàng cân đối việc quyên tiền, ngoài ra còn có tới trên 100 tổ chức của người Do thái, tương đối nổi tiếng trong số đó là Ủy ban sự vụ công cộng Mỹ- Isael?, Hội đồng Chủ tịch tổ chức người Do thái chủ yếu Mỹ?, trong khi người Ả Rập ở Mỹ chỉ có 10 tổ chức tương tự. Ý đồ chính trị cốt lõi của họ là du thuyết nước Mỹ luôn duy trì bảo vệ lợi ích của Isael.

Người Do Thái tuy nổi tiếng căn cơ tiết kiệm nhưng khi quyên góp vì mục đích chính trị thì họ rất hào phóng. Bốn trong 5 người quyên góp nhiều nhất trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 là người Do Thái. Các ứng viên chức tổng thống, thống đốc bang hoặc nghị sĩ dựa vào tiền đóng góp của ai thì phải biết lấy lòng người ấy. Cho nên khi đã trúng cử, họ đều bênh vực lợi ích người Do Thái và Israel.

Đặc biệt, người Do Thái có vai trò quan trọng trong giới truyền thông Mỹ. Các tờ báo lớn như New York Times, Washington Post, Newsweek... đều do họ sáng lập và nắm quyền kiểm soát. Các mạng truyền hình quan trọng như ABC, CBS, NBC, Bloomberg đều nằm trong tay người Do Thái. Họ lập ra hầu hết các công ty điện ảnh lớn nhất như Warner, Paramount, Metro-Goldwin-Mayer. Nhiều nghệ sĩ điện ảnh và đạo diễn là người Do Thái, như đạo diễn lừng danh Steven Spielberg.

Điều khiến người ta phải thật sự chú ý tới là mánh lới người Do thái khống chế vui chơi giải trí Hollywood và giới truyền thông đại chúng, họ rỉ rả ngắm ngầm làm thay đổi cách nhìn của dân chúng Mỹ đối với người Do Thái. Tại Kinh đô điện ảnh Hollywood, các ông chủ người Do thái một số hãng điện ảnh danh tiếng như Warrer Brothers, Dreamworks, Mikomer v.v liên tục dàn dựng xuất xưởng những bộ phim nói về lịch sử dân tộc Do thái, số phận bi thảm của người Do thái trong thế chiến 2, một người Do thái khác là Murdoch thì khống chế giới truyền thông đại chúng.

Ngoài ra, trong các tòa báo lớn như the New York Times, Wall Street Daily và 3 mạng lưới truyền hình lớn toàn Mỹ đều có nhiều phóng viên kỳ cựu, quyền uy và hậu duệ Do thái, bọn họ trực tiếp khống chế thao túng dư luận tin tức Mỹ, chặn đứng, không cho xuất hiện bất kỳ bài báo, mẩu tin nào không có lợi đối với người Do thái và đất nước Israel.

Năm 2007, Tiến sĩ Milsheimer, giáo sư chính trị học nổi tiếng của trường đại học Chicago hợp tác với giáo sư Walter trường đại học Harvard viết một bản báo cáo tựa đề Tập đoàn du thuyết Israel và chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, chỉ rõ nền ngoại giao của nước Mỹ lâu nay bởi chịu sự khống chế của tập đoàn Do thái ngay trên đất Mỹ nên thường xuyên hy sinh lợi ích của mình.

Bản báo cáo sau khi ra lò, các tờ báo chính thống Mỹ đều từ chối, không dám đăng, nên bất đắc dĩ họ phải gửi đăng tại báo chí nước ngoài. Nội dung bản báo cáo sau khi truyền trở lại Mỹ, tựa hòn đá củ đậu ném xuống mặt ao thu, tạo nên làn sóng phản kháng dữ dội quy mô lớn khắp nước Mỹ của các tổ chức người Do thái, và giới truyền thông đại chúng buộc phải phụ họa lên án dữ dội 2 tác giả bản báo cáo. Sự kiện này là một trong những minh chứng tiêu biểu cho cái gọi là Quyền lực Do Thái trong lòng nước Mỹ.

Năm 1928, cụ PHAN KHÔI nhân việc ông Loewenstein đi máy bay sẩy tay rơi xuống biển Manche (cụ tiếu phết), có loại bài về người Do Thái trên thế giới, đại ý:

« Do Thái là một dân tộc mất nước đã hai ngàn năm nay, hiện bây giờ họ không có một miếng đất cắm dùi, đi ở đậu hầu khắp các nước trên trái đất; thế mà họ có thế lực lớn lắm, cho đến người Âu Mỹ cũng phải lấy cái thế lực họ làm đáng lo. Như thế, há chẳng là một sự lạ mà người An Nam ta nên biết lắm ư?
Đã lâu nay, chúng tôi có ý muốn đem cái dân tộc có vẻ thần bí khó hiểu ấy mà giới thiệu cùng độc giả, tiếc vì chưa có thì giờ mà nghiên cứu cho tường tất được. Nay nhơn trong bài nói sự ông Loewenstein trót đã nói đến, vậy chúng tôi cũng ước lược mà nói luôn cái hiện tình của người Do Thái cho đồng bào ta nghe qua. Chúng tôi không dám tự phụ là khảo cứu đã kỹ càng, chỉ biết được chừng nào thì chúng tôi nói chừng nấy.
?
Có nhà làm sử đã nói rằng: Người Do Thái hiện nay cầm cả quyền kinh tế của thế gian trong tay họ; vả lại họ chỉ có túi vàng mà thôi, trong cuộc đại chiến tranh mới rồi, ai mất chi thì mất, chết mấy thì chết, còn họ không bị hại gì cả, mà cái túi vàng của họ nhơn đó càng nặng thêm. Nhơn vì không bị tổn hao và sự sanh hoạt được sung túc, cho nên người họ sanh sản ra đông lắm và mau lắm.
Nhà sử gia ấy nói như vậy rồi kết luận rằng số dân Do Thái hiện thời đây có lẽ lên đến hơn hai mươi triệu chớ chẳng chơi. Như vậy là suýt soát với số dân An Nam ta rồi.
?
Họ có những tánh tín ngưỡng, tự phụ, đoàn kết, và nhẫn nại.
Thật không có dân tộc nào trong thế gian nầy có cái đức tin cho mạnh bằng người Do Thái. Hiện bây giờ người họ ở khắp các nước, mà ở nước nào thì nhập tịch nước ấy song chẳng hề chịu ảnh hưởng của văn hóa nước ấy chút nào. Bao nhiêu những sự thuộc về tôn giáo, chánh trị, pháp luật, vệ sanh, cả đến những của gì đáng ăn, của gì không đáng ăn nữa, họ cũng đều tuân theo lời trong sách Cựu ước mà Đức Chúa Trời đã phán truyền cho họ.
?
Thử xem một đoạn trong sách Tư tưởng chiến thắng và người Do Thái của ông bác sĩ Penthatull, người Do Thái, xuất bản năm 1923 tại nước Autriche, thì đủ biết cái lòng tự phụ của họ là thế nào. Đoạn ấy như vầy:
"Người Do Thái chúng tôi không có thành kiến chút nào; đối với mọi sự vật trên đất, chúng tôi xem xét rất rõ ràng; chúng tôi thường dám có cái tinh thần mà người khác không dám có.
"Bởi có cái tinh thần ấy, cho nên, dầu ở trong các nước Âu Mỹ, không tấn tới được mấy chút, song giá ở trong một hòn cù lao nào thì chẳng qua trong 50 năm, chúng tôi sẽ làm chủ nhơn trong cù lao ấy. Trong thế giới không cứ việc gì cũng phải cần đến chúng tôi, vì mọi nơi dưới biển trên bờ đều có dấu chơn con nhà Do Thái. Con nhà Do Thái chúng tôi đã lanh lẹ lại siêng năng, cái chỗ mục đích kia một ngày chưa đạt đến thì chúng tôi còn chưa biết mỏi mệt..."
Nói về cái tánh đoàn kết của họ thì thật không có dân tộc nào bì được. Những dân tộc có lãnh thổ, có chánh phủ đã thành ra quốc gia rồi mà biết đoàn kết với nhau thì có lạ gì. Cái nầy người Do Thái bị tan lạc, bị xua đuổi, ở không yên ổn, rày đó mai đây, mà giữa họ nghiễm nhiên có một cái đoàn thể bền chặt và thiêng liêng, như vậy mới là đáng quý.
?
Trong mấy đoạn trước đã nói rằng người DoThái ở khắp các nước trong thế gian, bởi vậy, nếu họ không có thế lực gì thì thôi, bằng đã có, thì cái thế lực ấy thật là bao la cả trên mặt đất.
Một điều lạ nữa, là trong sách Cựu ước có nói tiên tri rằng người Do Thái về sau sẽ bị tan lạc, song được giàu có, thì quả như vậy, dân Do Thái bây giờ giàu hơn hết cả các dân khác. Cái thế lực của họ là ở đó.
Như ông Loewenstein mới rồi chết vì té máy bay mà bổn báo đã nói đến hôm nọ, là một người giàu nhứt trong ba nhà triệu phú ở thế gian.
Họ có nhiều tiền rồi, lại có người nữa. Nhơn tài của Do Thái không mặt nào là không có. Về kinh tế, về chánh trị, về văn học, về kỹ nghệ, bất kỳ phương diện nào, trong dân Do Thái cũng đều có người nổi tiếng về phương diện ấy.
Bởi vậy, bao nhiêu những ngân hàng lớn ở các nước phần nhiều là tiền của người Do Thái bỏ ra, cái đó đã đành rồi, mà cho đến các chức vụ trọng yếu trong ngân hàng cũng về tay họ nữa.
Họ đã cầm cả quyền tài chánh của thế giới vào trong tay, rồi thì các cuộc thiệt nghiệp lớn, như là mỏ sắt, mỏ dầu, cũng đều có người họ làm giám đốc. Rồi đến quyền ngôn luận, là như các nhà báo lớn, các sở thông tin, họ cũng xen vào. Thậm chí như ông Jaurès ở nước Pháp lập ra báo L''humanité, là báo binh vực cho công lý nhân đạo, có tiếng ở thế giới ngày nay, mà người ta nói rằng, lúc mới sáng lập ra, cũng có một vài nhà tư bổn Do Thái bỏ tiền vào giúp. Lại như các giáo viên trong các trường đại học bên nước Pháp hiện bây giờ, cũng có một phần đông là người Do Thái, điều đó đã có nhiều người Pháp lấy làm khó chịu.
Cái thế lực Do Thái ở nước Pháp đã là mấy, ở nước Mỹ mới ghê cho. Nước Mỹ có tiếng là một nước rất giàu, song cũng có thể nói rằng cái giàu ấy là của người Do Thái, vì các cơ quan về tiền bạc, phần nhiều bị họ chiếm hết. Coi như hồi cuối thế kỷ thứ 17, chánh phủ New York có một lần ra lịnh đuổi người Do Thái ở đó đi, rồi có những người Do Thái giàu, có nhiều phần hùn trong các công ty thực dân, rập nhau nổi lên phản đối, làm cho chánh phủ phải tiêu hủy cái lịnh ấy. Hồi đó mà họ đã có thế lực như vậy rồi, huống chi là bây giờ; ở nước Mỹ mà còn như vậy, huống chi là các nước khác.
Nói đến nước Tàu, các đô thành lớn của nước ấy mà có dấu chơn người Do Thái chỉ độ trong khoảng vài trăm năm nay, song cái thế lực ngầm ngấm của họ cũng chẳng vừa. Một người Tàu làm sách có nói rằng: "Nước Trung Hoa mỗi một năm mất cho ngoại quốc phỏng độ 12 triệu đồng bạc (nghĩa là tiền trả lời các món công trái), trong một số tiền lớn ấy, các nước khác chỉ hưởng được phần ít, còn người Do Thái thì hưởng được phần nhiều."
Tóm lại, cái thế lực của người Do Thái đáng ghê nhứt là cái thế lực ở trong các ngân hàng. Cái thế lực trong ngân hàng có thể chỉ huy được các chánh phủ của các nước. Giả như một nước nào muốn vay một món tiền to của ngân hàng lớn nào đó, thì cái quyền muốn hỏi vay về làm chi và cho vay hay không, cũng lại ở trong tay "quân Giu-dêu" nầy. Xem bề ngoài thì cái thế lực ấy tưởng không lấy gì làm quan hệ lắm, song xét kỹ ra thì thật là đáng khiếp. Bởi vì, như người ta nói, có tiền thì tiên hay múa, nếu họ đem lòng hiểm độc bắt ngặt các chánh phủ rồi xoay qua đường khác để làm lợi cho họ, lại không có thể được hay sao? Cho đến đảng Cách mạng nào, đảng C ộng sản nào mà đã túng tiền phải vay của họ thì tất nhiên là khó mà thoát ra ngoài vòng thế lực của họ được.
Nhờ tiền bạc, nhơn tài, và tấm lòng đoàn kết của người Do Thái, nên hiện nay dầu họ chưa khôi phục hẳn được tổ quốc mình, song sự ấy cũng đã rõ manh mối ra một ít. Vì mấy lần Vạn quốc hội nghị vừa rồi, nhơn người Do Thái thỉnh cầu, đều có đem việc ấy ra bàn, và nghe như trong đất Palestine ngày nay, tuy về người Anh đại lý, song đã có một bộ phận thuộc về quyền người Do Thái ở đó.
Có điều nầy ta nên biết, là về phần người Do Thái, họ tin ở lời hứa trong Cựu ước, cho nên họ quyết rằng thế nào rồi họ cũng sẽ về mà lập quốc lại trong đất Palestine. 
?
Người Do Thái đã có cái thế lực lớn như đã nói trên kia, thì có khó gì mà chẳng vận động cho mình trở về cố quốc, chi đến nỗi ở gởi nằm nhờ đất người ta lâu như vậy? Đó là một vấn đề rất phiền phức về quốc tế, chúng tôi không đủ học thức mà giải minh được, chỉ nói đại lược mà thôi.
Có lẽ cũng vì cái thế lực của Do Thái to quá, làm cho các nước lấy làm lo mà còn dùng dằng chưa dám cho họ trở về cố hương. Vì nghĩ rằng trong khi họ vong gia thất thổ mà còn lừng lẫy thế này, huống chi là khi đã có một miếng đất làm nơi căn cứ.
Trong một đoạn trước đã nói rằng người Do Thái có cái dã tâm muốn thống nhứt thế giới, mà cái dã tâm ấy là sanh ra bởi tôn giáo của họ. Thật thế, đã lâu nay người Do Thái rắp toan cậy cái thế lực của mình mà thiệt hành mọi việc để cho ứng nghiệm những lời đã hứa trong Cựu ước, tức là "sẽ được trở về đất cũ và trở nên một dân làm chủ các dân". Bởi tôn giáo họ xui cho họ có lòng hy vọng lớn lao, có tánh kiêu căng lạ thường, cho nên bây giờ, cái chữ "Do Thái giáo", người ta không coi là tôn giáo nữa, mà coi như là một chủ nghĩa: khi nói đến chữ "Israélisme", tức là có bao hàm cái nghĩa xâm lược, áp bách ở trong, cũng gần gần như khi nói đến chữ "Impérialisme" là "đế quốc chủ nghĩa" vậy.
Vì vậy, các nước bên Âu-Mỹ, bất luận nước lớn hay nhỏ, đối với người Do Thái đều có một tâm lý như nhau: một đường thì ghét dơ, một đường thì lo ngại. Cách hơn trăm năm về trước, người Do Thái đến đâu thì bị xua đuổi đến đó, vả lại còn bị người ta khinh rẻ đến điều, ba chữ "người Do Thái " đã thành ra một câu dùng để mắng trong các nước. (Tức như trong tiếng Pháp khi nào mắng ai mà dùng đến tiếng "C''est un Juif" thế là mắng độc lắm, còn hơn ta nói "đồ Mọi đồ Hời" nữa.) Mà sở dĩ người ta ghét dơ quá như vậy, lại là vì họ cho người Do Thái là tham lam, gian ác và nhứt là hay cho vay ăn lời.
Cái lòng ghét dơ ấy bây giờ lại đổi ra lo ngại. Lo ngại vì cái thế lực và cái dã tâm của Do Thái. Đã lâu nay mấy chữ "Cái vấn đề Do Thái" (Le problème Juif) thường thấy ra trong báo chương sách vở của các nước luôn luôn, hình như họ muốn hiệp cả trí khôn của loài người lại để giải quyết vấn đề ấy mà đến nay cũng còn chưa có phương giải quyết.
Trong khi chưa có phương pháp nào giải quyết được vấn đề Do Thái đó, thì người ta bất giác hốt hoảng kêu lên rằng: "Họa Do Thái! Họa Do Thái!" (Péril Juif).
"Họa Do Thái!" tiếng kêu ấy cũng như tiếng kêu "Họa da vàng!" (Péril jaune), nghĩa là sợ người Do Thái hoặc giả rồi đây sẽ cậy thế lực kim tiền mà thống nhứt thế giới được chăng, cũng như người ta lo cho Nhựt Bổn hoặc Tàu là giống da vàng, rồi đây hoặc sẽ đứng phắt dậy mà làm lôi thôi cho giống da trắng vậy.
Thật vậy, giống Do Thái là giống rất nguy hiểm; người ta sợ rằng hoặc giả rồi đây họ sẽ hiệp hết thảy đồng bào tan lạc lại cùng nhau choán cả tiền bạc trong thế giới, nhơn đó mà mở buộc quyền tài chánh của các nước, làm quân sư cho đám thợ thuyền các nước, rồi có thể xoay cái quyền Vạn quốc hội nghị vào trong tay mình, như thế há chẳng nguy cho các dân tộc khác hay sao? ấy vậy, hiện nay liệt cường đương lo mà giải quyết cái vấn đề Do Thái là phải lắm, vì nó là cần kíp lắm.
Có nhiều người biết chuyện nghĩ đến hiện tình thế giới mà bật cười. Số là hết thảy các dân tộc bị áp bách ngày nay, số người phỏng là 200 triệu rưỡi, trong số ấy người Do Thái chiếm hết một phần mười hai (1/12); thế mà một phần mười hai số người bị áp bách ấy trở lại làm cho các dân tộc áp bách phải lo ngay ngáy như có cái tai vạ gì lớn hầu đến cho mình mà không biết khi nào. Rút lại, ta chỉ có thể đoán ước chừng rằng nếu trong vũ trụ này mà quả có Đức Chúa Trời, và nếu Đức Chúa Trời quả là chúa riêng của dân Do Thái, thì cái vấn đề Do Thái thật cũng khó lòng lấy trí lực loài người mà giải quyết được vậy.
Ấy thế mà, hiện thời nay, trừ An Nam ta ra không kể, còn các nước, không nước nào là không kiếm cách để ngăn ngừa cái họa Do Thái về sau; cho đến nước Tàu, có người đã lo đến rằng phải gấp gấp thiệt hành cái chủ nghĩa Tam dân để có chống cự lại với chủ nghĩa Do Thái, tức là chủ nghĩa Đế quốc mà biến hình ra vậy.«  Ngày ấy cụ Phan Khôi đã viết ra như vậy, chứng tỏ thế lực Do Thái hùng mạnh thế nào.

Ngày nay trong hàng ngũ các quan chức cao cấp Chính phủ Mỹ có không ít bóng dáng người gốc Do thái như cựu Ngoại trưởng thời chiến tranh Việt Nam Henrep Kissingger, Cựu nữ Ngoại trưởng Albiight các nhân vật thuộc phái Diều hâu khét tiếng trong Chính phủ cha con nhà Bush có Paul Wolfowits, gã tướng võ biến được mệnh danh là ?oHung thần chiến tranh Irag? v.v? Chánh văn phòng Nhà trắng của tân Tổng thống Obama tên Emanuel cũng là một người Mỹ gốc Do thái. Không một vị Tổng thống Mỹ nào dám coi thường thế lực của cộng đồng người Do thái tại nước Mỹ. Nếu tới một ngày nào đó mà một người Mỹ gốc Do thái lên làm Tổng thống thì cũng chẳng ai ngạc nhiên, lấy đó làm điều kỳ lạ.

Cộng đồng Do Thái chỉ chiếm 3% dân Mỹ nhưng hiện chiếm 7% số hạ nghị sĩ và 13% số thượng nghị sĩ. Bởi sức ảnh hưởng cực lớn của cộng đồng người Do thái, nên trong tất cả các cuộc tranh cử bầu Tổng thống Mỹ, họ đều là đối tượng số 1 (mà dân gian gọi là ?ochiếc bánh ngọt thơm ngon?) tranh thủ lấy lòng cả 2 Đảng Dân chủ và Cộng hòa.

Do ảnh hưởng của cộng đồng người Do thái ở Mỹ đối với nền kinh tế Mỹ, đặc biệt là quyền chủ động về cơ cấu tiền tệ Mỹ nằm trong tay người Do thái. Mà trong tranh cử tại nước Mỹ, giành thắng lợi hay không hoàn toàn quyết định bởi quỹ tranh cử của ứng cử viên Tổng thống nhiều hay ít. Bởi vậy, có thể nói, số lượng viện trợ kinh tế mà các nhà tư bản Do thái khống chế vận mạng kinh tế Mỹ cung cấp cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ sẽ quyết định ứng cử viên đó có đắc cử hay không.

Mặt khác, tỷ lệ bỏ phiếu của người Do thái Mỹ có tác dụng không thể coi thường đối với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. Tuy cộng đồng người Do thái di cư tới Mỹ cho tới nay cũng chỉ chiếm có 3% tổng dân số nước này, nhưng số phiếu bầu của người Do thái 3% này lại thường quyết định số phận của ứng cử viên Tổng thống. Nhìn chung, chỉ có khoảng một nửa dân Mỹ đi bầu, trong khi đó tỉ lệ người Do Thái đi bỏ phiếu tới 90%, cao nhất trong các cộng đồng ở Mỹ. Hơn nữa họ lại sống tập trung tại các bang có tiếng nói quyết định kết quả bầu cử như New York, California, Pennsylvania...

Thường thì người ra tranh cử Tổng thống Mỹ đều hiểu rất rõ rằng, cộng đồng người Do thái công dân nước Mỹ vẫn luôn ủng hộ một bộ phận nhà tư bản dân tộc thiểu số có thế lực của nước Mỹ, bởi vậy mà các ứng cử viên Tổng thống của cả Đảng Dân chủ và Cộng hòa đều đua nhau vuốt ve mơn trớn nâng bi người Do thái, bởi làm như vậy không những có thể giành được sự ủng hộ cả về mặt kinh tế và tuyên truyền của người Do thái mà còn nhận được sự ủng hộ của các nhà tư bản dân tộc thiểu số khác vốn được người Do thái đồng tình giúp đỡ, điều này đối với thắng lợi của ứng cử viên Tổng thống là mang tính then chốt.

Trong mỗi khóa bầu cử Tổng thống tại Mỹ, ứng cử viên nhảy ra tranh cử bởi muốn giành được sự ủng hộ của cộng đồng người Do thái, đã không tiếc áp dụng bất kỳ một biện pháp, một con đường nào. Trong bầu cử Mỹ lần này, 78% cử tri Do thái đều bỏ phiếu cho Obama. Obama với vai trò là một ứng cử viên người da đen, mà nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng người Do thái tại Mỹ là một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử!

Tuy thế lực Do thái rất lớn, nhưng phần lớn chính khách Do thái Mỹ vẫn ưu tiên chú trọng bảo vệ lợi ích Mỹ tại khu vực Trung Đông. Thái độ của Mỹ đối với Israel ở mỗi thời kỳ khác nhau không giống nhau xuất phát từ suy nghĩ về cân bằng thế lực tại khu vực Trung Đông, chính khách Do thái Mỹ tuy cũng gây tác dụng nhất định trong đó, nhưng dù sao thì người Do thái Mỹ trước hết vẫn là người Mỹ, thứ đến mới là người Do thái, lợi ích chiến lược chỉnh thể của Mỹ tại Trung Đông luôn luôn và mãi mãi được đặt ở vị trí đầu tiên.

Người Do thái khiến cho nước Mỹ trở thành đồng minh thân thiết nhất của Israel. Một số người Mỹ thậm chí còn cho rằng, một khi nước Mỹ ngộ nạn, thì trên thế giới này chỉ có 2 quốc gia dốc toàn lực ra viện trợ cho nước Mỹ là Anh và Israel (!?). Chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất, Golda Meir (Golda Mabovifz, 1898-1878, cố nữ Thủ tướng Israel) trong túi chỉ có 15 USD lên đường sang Mỹ quyên góp chiến phí, đã đem về tới 70 triệu USD và vô số vũ khí. Chính nhờ vào sự giúp đỡ của cộng đồng người Do thái sinh sống tại Mỹ mà Israel đã vượt qua hết khó khăn này đến hoạn nạn kia, tới nay, Israel mỗi năm nhận được từ nước Mỹ ít là 5 tỷ USD.

Thật không ngoa khi nói rằng cộng đồng người Do Thái ở Mỹ là lực lượng có tiếng nói quyết định đường lối kinh tế - chính trị nước Mỹ, nhất là chính sách đối ngoại về Trung Đông

(từ hầm bà lằng xắng cấu các nguồn từ nước ngoài đến nước trong)

Được DinhPhDc sửa chữa / chuyển vào 13:49 ngày 27/11/2009

_______________
Nguồn: sưu tầm

Phim tài liệu Mùa đông 1991

Phim tài liệu Mùa đông 1991 Bộ phim tài liệu "Mùa đông năm 1991" phân tích về sự tan rã của Liên Xô - sự kiện được coi là “thảm họ...

Popular Posts