Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018

Dân tộc Do Thái (P.1)

Dân tộc Do Thái  

Phần 1

Sau 2.000 năm nước mất nhà tan, người người ly tán ăn nhờ ở đậu các xứ trên thế giới và thường trực bị sống trong thảm nhục diệt chủng, động lực nào đã thúc đẩy người Do Thái - với trăm ngàn dị biệt giữa họ - không những giành lại được đất tổ quê cha mà còn biến vùng đất khô cằn sỏi đá cũng như sa mạc hoang sơ từ ngàn xưa nơi đó thành một cõi bờ trù phú tân tiến, hồi sinh và thống nhất một ngôn ngữ già như trái đất là cổ ngữ Hébreu thành quốc ngữ?

Hai chữ Do Thái thật ra chỉ là danh xưng để gọi một giống người mà huyết thống, sau 2.000 năm vong quốc, đã bị lai loãng cả trăm, cả ngàn đời rồi. Cho nên có đến hàng trăm thứ Do Thái: Do Thái Pháp, Do Thái Bỉ, Do Thái Ý, Do Thái Anh, Do Thái Mỹ, Do Thái Nga, Do Thái Hung, Do Thái Thổ, Do Thái Đức, Do Thái Ba Lan, Do Thái Bồ Đào Nha, Do Thái Tây Ban Nha, Do Thái Ả Rập (Iran, Irak ..., Algérie, Maroc, Tunisie, Syrie, Egypte ?" Ai Cập ...), Do Thái Áo, Do Thái Phi châu da đen ... và cả Do Thái Tàu.

Thủy tổ người Do Thái và ý thức Do Thái Giáo là Abraham, dân tộc Hébreu , thuộc giòng Sémite. Abraham gốc người xứ Chaldée (Irak ngày nay), theo thân phụ di cư qua đất Canaan. Ông tự nhận được Thượng Đế khải thị cho chọn đất nầy làm nơi định cư lập nghiệp. Tuy nhiên, dân tộc Do Thái chỉ thực sự được gầy dựng kể từ đời thứ tư nhờ một trong 12 người chắt trai của Abraham là Joseph. Bấy giời Joseph làm thượng thư trong triều đình Ai Cập nên toàn thể độ 70 người trong tộc Abraham đều theo Joseph qua Ai Cập sinh sống.

Vào năm 1585 trước CN, một vị Pharaon (vua Ai Cập) khác lên ngôi, không thích người Do Thái, nghi kỵ và bạc đãi bắt cả nhóm của Joseph làm nô dịch. Ý thức thành lập một quốc gia Do Thái phát sinh từ đó.

Gông cùm nô dịch kéo dài 317 năm mới được Moïse giải phóng. Moïse là một thân vương của Ai Cập, nhưng đứng trước nhục trạng của đồng bào ông, ông cương quyết từ bỏ địa vị cao sang cá nhân, bênh vực và bảo vệ họ.

Vào năm 1266 trước CN, Moïse đưa đồng bào đau khổ của ông di cư về Đất Hứa. Tới núi Sinaï, họ sống vất vưởng cực khổ 40 năm. Truyền rằng chính nơi đây, được khải thị bởi Thượng Đế, Moïse đã cụ thể hoá ý thức tôn giáo nhất thần của Abraham thành Do Thái Giáo, có cơ sở hẳn hòi: Thờ Jahvé, một thượng đế toàn năng, toàn trí, chí nhân, chí công và là người tạo ra trời đất cùng muôn loài.

Thánh Kinh Do Thái (La Torah) di lưu rằng vì thủy tổ loài người, ông Adam và bà Eva, phạm tội ăn trái cấm nên hậu duệ của ông bà phải chịu khổ, song một ngày kia một Đấng Cứu Thế trong tộc Do Thái sẽ ra đời và Ngài sẽ là người hoà giải Jahvé với nhân loại.

Người trong đạo Do Thái tin có linh hồn và linh hồn bất diệt khi thể xác rữa tan. Tín đồ Do Thái giáo phải tin theo Thập Tự Giới như: thờ một Chúa duy nhất, kính trọng cha mẹ, không được cướp của giết người, không được nói dối, phải giữ linh hồn và thể xác trong sạch ... Ngày thứ bảy trong mỗi tuần là ngày Sabbat, tức là ngày thiêng liêng, mọi công việc đều phải đình lại.

Do Thái và Palestine đều nhận mình là con cháu của Tổ phụ Abraham và Moses, đều tin vào một Thượng Đế toàn năng mà Palestine gọi là Allah, Do Thái gọi là Jahweh hay Jehovah. Điều lạ lùng trớ trêu là Thượng Đế toàn năng đó đã chỉ vùng đất Palestine hôm nay cho những người Do Thái, và bảo họ rằng: "Ngươi và con cháu ngươi là dân tộc ta chọn để sinh sôi nảy nở nơi đây để làm sáng danh ta".

Trong khi cũng Thượng Đế toàn năng đó lại chỉ y nguyên phần đất Palestine sỏi đá đó cho người Palestine và bảo rằng: "Đây là quê hương của ngươi, đứa nào láng cháng đến thì đuổi nó đi để làm sáng danh ta".

Cả người Do Thái lẫn người Palestine đều tin lời đó là thật cho nên nhất quyết theo đúng lời Thượng Đế toàn năng dạy phải ăn miếng trả miếng, mắt đổi mắt, răng đền răng bằng cách riêng và bằng phương tiện riêng của mình.

Cuộc xung đột Do Thái-Palestine trở thành cuộc chiến giữa hai giáo chủ Moses và Mahomet, giữa thánh thư Talmud và Koran.

Palestine là vùng đất mà cả người Do Thái, Hồi giáo và các hệ phái Thiên chúa giáo đều coi là thánh địa của riêng mình. Đến thế kỷ thứ hai thì coi như không còn người Do Thái nào hiện diện trên vùng đất đó nữa.

Dân tộc Do Thái bắt đầu văn minh và thống nhất từ đời Moïse nhưng nhờ Josué, đời kế tiếp, chiếm được một phần xứ Canaan (Đất Hứa), con cháu Israël mới về đó định cư chính thức. Sau, David chiếm trọn đất Canaan, dựng đô ở Jérusalem, lập một ngôi đền đẹp đẽ cũng lấy tên là Jérusalem (có nghĩa là Đền Bình Trị). Và đến đời con của David là Salomon, quốc gia Do Thái mới toàn thịnh.

Năm 930 trước CN, Salomon băng hà, Israël bị chia làm hai tiểu quốc: Israël ở phía bắc và Judée ở phía nam. Nam bắc tương tàn, rốt cuộc Israël bị Assyrie chiếm mất, Judée lọt vào tay Babylone.

Tới khi Ba Tư (Iran) sang chiếm Babylone, người xứ Judée mới được về lại xứ, xây cất lại đền Jérusalem, tạm sống yên ổn trong hai thế kỹ.

Rồi tới năm 63 trước CN, La Mã chiếm xứ Judée, tàn phá và đổi tên Jérusalem thành Aelia Capitolina, và Israël thành Palestine (tên cũ). Dân tộc Do Thái mất quốc gia và nếm mùi lưu vong và nhục trạng diệt chủng trường kỳ khủng khiếp từ thời đó cho tới năm 1948.

Mới đầu họ tản mát qua Tiểu Á rồi qua Âu Châu, Bắc Phi, Ethiopie, chỉ còn một nhóm nhỏ ở lại trong xứ sống chung với người Ả Rập. Đi tới đâu, thổ dân cũng nhận ra họ, một là vì tôn giáo, hai là vì nét mặt (nhất là sống mũi mỏ vẹt đặc thù của họ), ba là sự đoàn kết, sự thông minh, sự tiến đạt thịnh vượng hơi quá lộ liễu của họ, dù rằng đi tới đâu họ cũng đều nhập tịch xứ đó và cũng hy sinh tính mạng những khi hữu sự y như người bản xứ.

Tại Ba Tư (Iran) vào thế kỹ XIX, người Do Thái chẳng khác gì hạng tiện dân bên Ấn Độ, vì đối với người bản xứ, hễ người Do Thái đụng tới một vật gì thì vật đó hoá ra nhớp nhúa bẩn thỉu. Do đó người Do Thái bị cấm triệt không được hành nghề như mở quán tạp hoá, nhà hàng ... Lúc trời mưa, họ không được ra khỏi khu vực dành riêng cho họ (có tên là Mellah) tương tự như các ghetto ở Châu Âu. Đặc biệt người Do Thái không có quyền làm chứng và tuyên thệ ở toà án. Sinh mạng của một người Do Thái không quá 140 Kraus (tiền Ba Tư).

Tại Maroc, người Do Thái không được luật pháp công nhận quyền công dân dù họ đã vào quốc tịch. Lẽ sống chết của họ tùy thuộc vào nhà vua. Vua Maroc muốn bắt họ làm nô lệ thì họ phải tuân theo vì không biết dựa vào đâu mà kêu ca ngoài lời nguyện cầu Jahvé che chở.

Tại Yémen trước 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước mặt người Hồi giáo, không được bán cùng món hàng với người Hồi. Ngoài ra, ngày thờ Mohamed, giáo chủ Hồi giáo, người ta cấm họ mặc các thứ vải có màu nhạt, mang khí giới. Trẻ con Do Thái mồ côi phải giao cho nhà cầm quyền để nhà cầm quyền cho chúng theo Hồi giáo.

Thân phận người Do Thái ở Châu Âu xét ra còn bi đát hơn nhiều so với thân phận người Do Thái ở Trung Đông. Suốt gần mười thế kỹ, không nơi nầy thì nơi khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị nhục cảnh ghetto, pogrom, hỏa hình lò thiêu, dìm nước. Người Do Thái bị buộc gắn hình bánh xe nhỏ hoặc hình ngôi sao David sáu cánh trên áo như tội phạm mang áo dấu, bị trút lên đầu lên cổ tất cả mọi tội lỗi mà họ không hề gây nên. Nhưng lúc họ được yên thân nhất cũng không khác thân phận nô lệ là bao vì người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn theo nghề nông, họ chỉ có thể làm nông nô hay tá điền là cùng. Muốn khá giả, họ chỉ còn nghề đổi tiền và cho vay .

Sự học hành của người Do Thái ở các nơi nầy cũng bị hạn chế. Chẳng hạn ở Nga, chính phủ không ra mặt cấm hẳn sự học của họ nhưng lại áp chế một chính sách xảo quyệt là cho các trường trung học chỉ được thu nhận một số học sinh Do Thái khoảng 10% tổng số học sinh theo Thiên Chúa giáo, trong khi ở thành nào có dân Do Thái thì nhân số Do Thái cũng chiếm ít nhất 30% tổng số dân cư ngụ vì người Do Thái bị bắt buộc phải sống chung gần như trong các ghetto của Đức, của Ba Lan.

Tình cảnh của họ bất công đến nỗi một người theo Thiên Chúa giáo đã phải thốt ra: "Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là người Thiên Chúa giáo ngoan đạo thì hết thẩy chúng ta đều là những người Thiên Chúa giáo ngoan đạo".

Cuộc tàn sát Do Thái vì kỳ thị Thiên Chúa giáo thực sự bắt đầu từ thế kỹ XI trong cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân kéo dài đến đầu thế chiến thứ hai thì chuyển hướng qua kỳ thị chủng tộc bởi Hitler và Đức Quốc Xã.

Năm 1096, người ta rủ nhau đi giải phóng mộ Chúa Ki Tô. Và còn gì hữu lý bằng, trước khi làm công việc thiêng liêng cao cả đó, trả thù những kẻ mà 11 thế kỹ trước đã phản bội Chúa nên Chúa mới bị chính quyền La Mã kết tội phiến loạn, bị đóng đinh trên Thánh Giá tại núi Golgotha cùng với hai tên đạo tặc.

Ở Worms (Đức), trong hai ngày, người Âu Châu đã làm thịt 800 người Do Thái bất luận già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Hễ là Do Thái mà không chịu theo Thiên Chúa giáo là bị chém bằng gươm bằng giáo.

Ở Mayence (Đức) cũng vậy, 700 người Do Thái ngã gục chỉ vì họ là hậu duệ của kẻ đã giết Chúa (Juda) và đã được Chúa" xin Cha - Thượng Đế - tha thứ cho họ (người Do Thái) vì họ không biết họ làm gì". Chúa tha, nhưng đời đời kiếp kiếp tín đồ của Chúa, vốn không cùng chủng tộc với Chúa, không tha, quyết diệt cho tiệt cái nòi mà chính Chúa đã mượn thân xác xuống trần.

Mà thật ra, Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo vốn là"đồng bào ruột thịt"vì Đức Mẹ Maria và Chúa Jésus đều là người Do Thái và tất cả đều theo những điều luật của Moïse, cũng dân Do Thái nốt.

Đến thế chiến thứ hai, Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát họ rất bình tỉnh, có tổ chức, có kế hoạch, có chủ thuyết và có khoa học. Bởi vậy dân Do Thái chết như rạ, dầu Néron, Tần Thủy Hoàng có tái sinh cũng không thể không cúi đầu chịu thua.

Lửa kỳ thị tôn giáo và hận giết Chúa sau gần 20 thế kỹ dù sao cũng phải lụi phần sôi sục. Hơn nữa, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo, cho nên muốn tận diệt họ, Hitler bèn tạo thêm lòng kỳ thị chủng tộc. Thuyết kỳ thị chủng tộc của Hitler đã được rút ra từ cuốn sách "Chủng Loại Các Thứ Cây" (Espèces en Botanique), xuất bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thụy Điển Carl Linné (1707-1778). Từ hệ thống phân loại cỏ cây làm 24 giống, Linné phân loại tới loài người: Giống Âu da trắng siêng năng, giống Á da vàng dai sức, giống Phi da đen bạc nhược và giống Mỹ da đỏ nóng nảy.

Chộp lấy hệ thống đó, Đức Quốc Xã tuyên truyền rằng giống Do Thái ?" vàng chẳng ra vàng, đen chẳng ra đen, trắng không thật trắng ?" có máu quỉ quyệt phản bội (phản Chúa), chống chính phủ (thuyết c ộng sản của Marx, gốc Do Thái). Vậy, vì lý do an ninh của nước Đức và để bảo tồn huyết thống của giống Đức (giống Aryen) - một giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới - khỏi bị lây lai bậy bạ mà phải sa đoạ lần lần mất, chúng ta (dân Đức) phải tận diệt chúng (tức Do Thái) và tịch thu tài sản của chúng.

Từ năm 1939 đến đầu năm 1945, tính ra có trên năm triệu người Do Thái bị Hitler và đồng bọn thảm sát hoặc bằng súng đạn, hơi ngạt, hoặc bằng lò thiêu, chôn sống. Chỉ riêng tại trại Auschwitz cũng đã có gần ba triệu thây ma Do Thái.

Bao lần quật khởi đẩm máu, người Do Thái vẫn không tránh được cảnh nước mất nhà tan, người người phân tán trên khắp địa cầu. Ở đâu họ cũng bị hất hủi, khủng bố, tàn sát cho nên lòng hoài hương của họ trong suốt 2.000 năm lúc nào cũng đau đáu trong lòng. Nỗi khổ của họ đã làm thi sĩ Anh Byron buột miệng than"Dân Do Thái khổ hơn những con thú không có hang".

Dù ở Moscou, Paris, New York, Rome, Berlin, Londre ... người Do Thái luôn luôn hướng về thánh địa Jérusalem và xứ Israël, mảnh đất thiên đường mà, nghe nói, Thượng Đế đã đặc ban cho họ, một dân tộc, cũng nghe nói, được Chúa trời chọn. Bất cứ gặp nhau ở nơi nào, họ đều chúc nhau: Sang năm về Jérusalem.

Nói đến công cuộc phục quốc của người Do Thái mà không nói tới Théodore Herzl thì quả là một thiếu sót lớn. Vì nếu không có cuốn sách nhỏ mang tựa đề "Quốc Gia Do Thái" (L''Etat Juif) của Herzl, chẳng biết ngày nay thân phận hậu duệ ông Jacob đã đi đến vực thẳm khổ nhục nào rồi.

Herzl hoạt động hăng say không tiếc sức. Chu du khắp nơi, gặp gỡ hết thảy các nhân vật có thẩm quyền lúc bấy giờ. Năm 1903, người Anh muốn tặng ông xứ Ouganda ở Trung Phi, đảo Chypre ở Địa Trung Hải để thành lập quê hương Do Thái, nhưng các người Do Thái ở Nga - đặc biệt Chaïm Weizmann, sau nầy thành vị tổng thống đầu tiên của Israël - nhất định không chịu, kiên quyết đòi về đất Palestine cho bằng được.

Năm 1897, hội nghị Sionisme - chủ nghĩa Do Thái tự trị - lần thứ nhất, cảm hứng từ dự phóng một quốc gia Do Thái của Théodore Herzl, đã công bố quyền của dân tộc Do Thái trong mùa xuân mới dân tộc trên chính quê hương của họ. Quá lao tâm lao lực ngày đêm tranh đấu thuyết phục các chính quyền, liên lạc với đồng bào trên thế giới, Herzl kiệt sức và qua đời tại Vienne (Áo) năm 1904 hồi mới 44 tuổi.

Năm 1905, Nga thua Nhật, cách mạng nổi lên ở Nga và dân Nga lại trút hết tội lỗi lên đầu người Do Thái, do đó có nhiều cuộc thảm sát Do Thái trong tháng 10 (1905) và vào năm 1919-1921 đã có trên 10 vụ pogrom.

Năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ. Đồng minh trông cậy rất nhiều vào Anh quốc vì bấy giờ Anh làm bá chủ trên biển. Nhà cầm quyền nước Anh lúc đó vô cùng bối rối vì các nguyên liệu chế tạo thuốc nổ của họ thiếu một chất cốt yếu, đó là chất acétone. Trong những ngày khủng hoảng đó, nhà bác học Anh gốc Do Thái Chaïm Weizmann (1874-1952) đã sáng suốt nắm lấy cơ hội, chế biến được chất acétone nhân tạo giúp đồng minh đánh bại Đức năm 1918. Đế quốc Ottoman sụp đổ, Palestine thuộc Thổ Nhĩ Kỳ và rồi bị Anh cướp mất mở đường kích thích người Do Thái lưu vong bắt đầu trở về. Họ phải chiến đấu chống người Anh để bám đất, và đồng thời với dân bản địa Palestine.

Quyền của dân tộc Do Thái đã được bản Tuyên Ngôn Balfour công nhận ngày 02 tháng 11 năm 1917 và được Hội Quốc Liên [Liên Hiệp Quốc] tái xác định, do đó đã thành sự công nhận quốc tế chính thức về mối liên hệ lịch sử của dân tộc Do Thái với vùng đất Palestine và quyền tái lập quê hương của họ.

Palestine vốn không phải là một quốc gia mà là một vùng đất mênh mông thuộc đế quốc Ottoman, 1453-1917. Đệ nhất thế chiến chấm dứt năm 1918, thực dân Pháp "được ủy nhiệm "vùng Bắc Phi" (Maroc, Algérie, Tunisie, Libye) và bắc Cận Đông (Syrie và Liban). Palestine nằm dưới sự "ủy nhiệm" của thực dân Anh, nơi đây gồm các tộc Ả Rập Hồi, Thiên Chúa Giáo và Do Thái được gọi chung là Palestiniens (cư dân vùng Palestine).

Thảm hoạ Shoah đã tiêu diệt hàng triệu người Do Thái tại Châu Âu, thêm một lần nữa chứng minh nhu cầu phải giải quyết vấn đề thiếu tổ quốc và độc lập của dân tộc Do Thái bằng sự tái lập quốc gia Do Thái hầu mở cửa cho mọi người Do Thái và trao cho họ một quy chế bình đẳng trong lòng cộng đồng các quốc gia.

Những người sống sót trong cuộc thảm sát tại Châu Âu cũng như những người Do Thái từ các quốc gia khác không hề buông bỏ sự cố gắng của họ để tìm về Israël, bất chấp mọi khó khăn, mọi trở ngại, mọi tai ương; và họ không ngưng đòi hỏi quyền có một đời sống có phẩm cách, có tự do và có công ăn việc làm liêm chính trên mảnh đất của tổ tiên họ. Quê hương Do Thái được thành lập vào năm 1922 nhưng bị đặt dưới quyền bảo hộ của Anh, tức là có tiếng mà không có miếng (Tuyên ngôn Balfour ngày 02/11/1917).

Năm 1938, trước khi bắt đầu thế chiến thứ 2, thực dân Anh đề nghị chia khoảng 30% lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Ả Rập và một Do Thái, nhưng sự việc không thành. Phải đợi đến cuối thập niên 1940 quốc gia Do Thái mới thành một thực tại độc lập. Trong thế chiến thứ hai, một lần nữa người Do Thái đã anh dũng chiến đấu phía đồng minh, đặc biệt bên cạnh Anh mặc dù người Anh đã một lần xảo quyệt phụ rẫy công lao của họ (cho đất mà không cho quyền tự trị).

Khi chiến sự kết thúc, hy vọng độc lập của người Do Thái lại bay theo khói súng. Công chung sức diệt Đức Quốc Xã của họ không được Anh đếm xỉa tới. Sự kiện nầy trách Anh là chuyện thừa vì sự thành lập một quốc gia Do Thái độc lập ảnh hưởng đến lẽ sống chết của Anh: các mỏ dầu hỏa của Anh nằm hết bên các xứ Ả Rập ?" Ai Cập, Syrie, Ả Rập Séoudite, Cisjordanie - những quốc gia tử thù truyền kiếp với Do Thái.

Nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, ngày 29/11/1947, tán thành giải pháp đôi toàn bộ lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Do Thái (56,47%) và một Palestine (43,53%) dưới quyền giám định của Anh. Năm 1948, Anh rút khỏi Palestine. Thánh địa Jérusalem có một quy chế đặc biệt dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Khối Ả rập không chịu, đặc biệt người Palestine, viện cớ không được tham vấn trong việc phân chia.

Người Do Thái lợi dụng khoảng trống đó tuyên bố thành lập quốc gia Israel và bắt đầu xua đuổi người Palestine như những kẻ cư ngụ bất hợp pháp khỏi quốc gia Israel, ngay cả những người Palestine ở trên phần đất được LHQ phân chia cho họ năm 1947.

Bốn triệu người Palestine phải tha phương cầu thực khắp các quốc gia đồng đạo vùng Trung Đông. Trong khi 750.000 người Palestine bị tống khỏi những vùng đã được phân chia cho họ trở thành những kẻ không đất cắm dùi lui về cố bám lấy vùng Bờ Tây sông Jordan và dải Gaza.

Ngày 14/05/1948, dưới sự lãnh đạo của David Ben Gourion (1886-1973), quốc gia Do Thái được thành lập. David Ben Gourion đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập: "Đất Israël là nơi sinh ra dân tộc Do Thái". Chính nơi đó đã đặt nền móng cho bản sắc tâm linh, tín ngưỡng và dân tộc của người Do Thái. Chính nơi đó dân tộc Do Thái đã thực hiện nền độc lập của mình và đã tạo nên một nền văn hoá có ý nghĩa quốc gia và phổ biến. Chính nơi đó họ đã soạn ra bản Thánh Kinh và đã cống hiến cho thế giới.

Bị bức bách phải lưu xứ, tản mác trong mọi quốc gia khác, dân tộc Do Thái vẫn thủy chung với vùng đất Israël, chưa bao giờ họ ngưng nguyện cầu và ngưng hy vọng trở về để tái lập nền tự do quốc gia của mình. Thúc đẩy bởi sự liên hệ lịch sử đó, người Do Thái đã đấu tranh qua bao thế kỹ để được trở về trên mảnh đất của tổ tiên và tìm lại xứ sở của mình. Người Do Thái đã trở về, khai khẩn các vùng đất hoang, tái sinh ngôn ngữ, xây dựng các thành phố, các thôn làng và sắp đặt một cộng đồng năng động và tràn đầy phát triển, có đời sống riêng về kinh tế và văn hoá. Họ cầu tìm hoà bình đồng thời sẵn sàng để tự vệ. Họ đã mang lại nhiều lợi ích trong tiến bộ cho mọi cư dân trong xứ và đã được chuẩn bị cho nền độc lập tối cao.

Giành được nền độc lập không có nghĩa quốc gia Do Thái sẽ được sống trong hoà bình để kiến thiết khi chung quanh họ các nước thù địch trong Liên Đoàn Ả Rập (được thành lập từ 1945) vẫn nhất quyết tận diệt họ. Hơn nữa, có quá nhiều khác biệt trên mọi phương diện giữa người Do Thái với nhau và vùng đất mới được độc lập của họ vốn đã "chết" quá lâu, ảnh hưởng rất nhiều đến lẽ sinh tồn của họ.

Công việc đầu tiên mà Bộ Quốc Gia Giáo Dục Istaël gấp rút xúc tiến sau ngày 14/05/1948 là thống nhất tiếng Hébreu thành quốc ngữ. Sau 2.000 năm phiêu bạt khắp hoàn cầu, con cháu Abraham không những đã mất đi ít nhất 99% huyết thống chính tông trong người mà tiếng mẹ đẻ chẳng còn mấy người nói được. Thời mới phục hồi nền độc lập, dân số Israël được hơn một triệu gồm trên 50 giống người và mỗi giống mỗi ngôn ngữ, mỗi nếp sống, mỗi trình độ văn minh, văn hoá.

Để thống nhất ngôn ngữ, BQGGD Israël cưỡng bách mọi công dân Israël phải học tiếng Hébreu, soạn những sách phổ thông dạy từ 500 đến 1.000 tiếng căn bản để sau vài tháng dân chúng có thể đàm thoại với nhau được. Đồng thời Bộ còn cho dịch những danh từ mới về mọi ngành ra tiếng Hébreu để cho soạn sách từ cấp tiểu học đến đại học, tìm trong Thánh Kinh những chuyện cổ để dịch ra những ý niệm mới.

Trong vòng 10 năm, ngành giáo dục của họ đã bắt kịp các nước tân tiến nhất. Ngôn ngữ mới được hồi sinh mà con cháu Abraham đã muốn tranh giành ảnh hưởng với các ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức !

Hai đại học lớn nhất tại Israël là đại học Jérusalem gồm đủ phân khoa và Viện Công Nghệ, nơi đào tạo các kỹ sư đủ mọi ngành, đặc biệt ngành nông nghiệp và công nghệ. Ngoài ra còn có một viện chuyên về nghiên cứu là Viện Khoa Học Weizmann ?" tên vị tổng thống đầu tiên của họ - ở Rehovoth với những ngành như vật lý, hạt nhân, điện tử, vi trùng học, vật lý thực nghiệm ..., một đại học ở Tel Aviv và nhiều trường đại học khác khắp nước.

Từ ngày Do Thái lập quốc, Mỹ trở thành một hậu cứ cho Do Thái và Do Thái là căn cứ tiền phương của Mỹ giữa biển cát Hồi giáo mênh mông ở Trung Đông. Trong khoảng thời gian 1964-1970, Mỹ đổ vào Do Thái $221.782.000 vũ khí, gần gấp đôi số vũ khí đổ vào Iran và gấp 50 lần số bán cho Saudi Arabia vốn là đồng minh thân thiết của Mỹ thời đó.

Người Palestine chẳng nhận được một viên đạn nào mà cũng chẳng mua được một khẩu súng nào của Mỹ. Ở Mỹ có 5.600.000 người Do Thái xấp xỉ bằng dân số chính quốc, trong khi chính quốc Do Thái chỉ có khoảng 4.500.000 người theo Do Thái giáo gồm 53 thứ Do Thái từ khắp nơi tụ về, còn lại khoảng 1,2 triệu là người Ả Rập. Từ khi thành lập quốc gia Israël người Do Thái ở trong nước được gọi là Israéliens / Israelis (công dân quốc gia Israël) để phân biệt với những người Do Thái ở hải ngoại (Juifs/Jews).

Việc kiến thiết quốc gia Israël, người Do Thái phải bắt đầu từ con số không. họ đã nỗ lực siêu phàm san bằng những trở ngại thiên nhiên của họ. Đó là sự phát triển kinh tế trên bãi sa mạc Neguev,"kẻ thù số một phải khuất phục của Israël"theo lời bà Golda Meir, thủ tướng Israël, 1969-1974).

Sa mạc Neguev (Neguev = Phía Nam) rộng hơn phân nửa diện tích toàn xứ Israël (13.000 km vuông), nằm phía nam Tel Aviv, đỉnh cực nam là Hồng Hải với thành phố biển Eilat. Trước thế chiến II, Neguev hoàn toàn hoang vu khô cháy, lồi lõm. Văn minh tiến bộ như thực dân Anh mà còn chịu thua, không sao khai thác được.

Chính phủ Israël phải khai phá vùng cát"chết" này. Một là để nuôi dân: đất đai thì hẹp mà dân số tăng rất nhanh qua các phong trào hồi hương tập thể. Hai là để củng cố mặt quốc phòng: không để khoảng đất rộng nào không có người ở hầu tránh sự xâm nhập của kẻ thù.

Thường thì người ta tính năng suất của đất đai theo diện tích, có nghĩa là mức sản xuất hàng năm được bao nhiêu mỗi héc-ta. Riêng tại Israël thì sự tính toán hơi lạ đời vì dân ở đây tính năng suất theo ... khối nước tưới ! Mỗi năm có bao nhiêu nước và mỗi khối nước sinh lợi được bao nhiêu. Bởi vậy, một mặt họ lo cách thức kiếm nước, một mặt họ tìm mọi cách hầu tránh chuyện nước bị hao hụt đi, chẳng hạn nước bị bốc hơi hay thấm vào lòng đất. Phương pháp dẫn thủy nhập điền rất công phu tỉ mỉ ở Việt Nam đã làm thế giới ngạc nhiên, song đem so với những nổ lực phi thường của dân tộc được Chúa chọn thì hãy còn kém xa.

Vấn đề thiếu nước ở Israël là nguyên nhân sinh ra lắm thứ thuế oái oăm. Ví dụ: Trong giá tiền một chai bia được tiêu thụ, một nửa là thuế dành cho công cuộc tìm nước. Họ đã nghĩ đến việc đào giếng, dùng nước mưa và nước biển, nhưng lấy đâu cho đủ nước trong khi ở đây mưa chẳng mấy lúc; còn nước biển thì ngoài công dụng cho kỹ nghệ ra, súc vật còn chịu không nổi huống hồ cỏ cây.

Họ bèn thăm dò những dòng nước ngầm dưới lòng đất nằm ven biển và đã khám phá ra những nơi nầy có một tầng đất không thấm nước, chứa lại khá nhiều nước ngọt, như ở khu Avedat, số nước rút được từ các nơi đó là khoảng 140 triệu thước khối trong một năm. Những vùng có nước ngầm đã trở nên bồn nước thiên nhiên dành cho cả khu vực Yarkon ?" Neguev. Nhất là từ khi sử dụng được dòng sông lịch sử Jourdain, tổng lượng số nước rút được hàng năm lên tới 5 tỉ thước khối đủ dùng cho mọi nhà, mọi ngành kỹ nghệ và 4 triệu dounams đất khô cháy (10 dounams tương đương với 1 héc-ta).

Để tránh việc phí phạm nước, dân israéliens bơm xuống lòng đất hàng triệu thước khối nước - kể cả nước cống đã được lọc và khử trùng ?" cho khỏi bị bốc hơi. Thật chưa dân tộc nào cần"nước"như người Do Thái. Song xét ra phương pháp đặt ống dẫn nước vẫn hiệu nghiệm hơn cả. Ống dẫn nước ở Israël có lẽ là loại ống dẫn kỹ lục: dài từ 4 đến 170 km, nặng không dưới 32 tấn, mỗi đoạn 5 thước đường kính và 3 thước bề dài, đặt ngay trên mặt đất, có khi phải xuyên núi, vượt đèo và thung lũng. Hệ thống dẫn nước của họ là cho nước chạy theo ống dẫn lớn, qua ống nhỏ, phân ra làm muôn ngàn nhánh mỗi lúc mỗi bé để rồi tung ra ruộng nương, vườn tược qua các máy nước chẳng khác gì các trận mưa nhân tạo.

Nước chảy đến đâu, người dân tìm theo đến đấy và sự canh tác tiến triển tùy nhịp nước lan mau hay chậm.

Thủ đô của sa mạc Neguev là thành phố Beersheva, tụ điểm của hầu hết những người Do Thái hồi hương từ khắp nơi trên thế giới. Chính Abraham đã đặt ra tên Beersheva (Giếng thề).

Dưới bầu trời sa mạc nóng cháy Neguev (trung bình 36° C), người ta thấy gồm đủ hạng người, từ anh kỹ sư, nhạc sĩ đến chị bán hàng, chú thợ máy; từ bác tiến sĩ, thím giáo sư đến cô y tá, em sinh viên, cậu cu li. Bấy giờ mọi dị biệt xã hội giữa họ đều được san bằng, tất cả chỉ còn là những đứa con của Israël chung vai sát cánh hồi sinh vùng Đất Hứa.

Dù người Do Thái chung tay xây dựng đất nước hùng mạnh vậy, nhưng đến nay vẫn còn sự kỳ thị ngấm ngầm nhưng sâu sắc giữa hai nhóm Do Thái, đặc biệt cộng đồng Do Thái chủ thể Ashkénaze - tự cho mình là dân trí thức - vẫn có cái "nhìn xuống" đối với cộng đồng Do Thái Séfarade (hồi hương từ Bắc Phi) mà họ đánh giá là lái buôn, ít học. Israël cho đến nay không hề có bộ trưởng nào cũng như chưa hề có một thẩm phán Do Thái gốc Ả Rập trong Tối Cao Pháp Viện. Từ khi lập quốc năm 1948, Israël đã trải qua 8 đời tổng thống và 13 thủ tướng, tất cả đều gốc Ashkénaze.

Năm 1967, Do Thái lấn vào hai vùng này và người Palestine bị dồn vào chân tường phải vùng lên. Danh từ Intifada, Jihad bắt đầu được thế giới nhắc đến từ đó. Cuối cùng Do Thái đã nhượng cho Palestine 17% vùng Tây ngạn sông Jordan và 60% dải Gaza.

Người Do Thái tiếp tục dành đất, vài trăm ngàn người Do Thái ở trên những phần đất thuộc quyền quản trị của Palestine. Trước 1967, mật độ chung Do Thái là 278 người trên một cây số vuông trong khi ở dải Gaza, mật độ đó là 3.138 người.

Nguồn nước uống, những đường thông thương ra biển, đa số công ăn việc làm và chuyện học hành của Palestine đều do Do Thái kiểm soát. Kinh tế của Palestine giảm 1/3 trong giai đoạn 1992-1996, số thất nghiệp lên đến 20%. Lợi tức hàng của người Do Thái là $36.000, cao gấp 12 lần cao hơn người Palestine trong khi đó viện trợ Mỹ hàng năm cho Do Thái là $1.000 cho mỗi đầu người, ở các nơi khác vùng Châu Phi $6 cho mỗi người.

Sau chiến tranh ném đá 2 (Intifada 2), ở Jaffa, người Ả Rập mua bán trong các chợ Ả Rập, người Do Thái mua sắm trong các siêu thị. Thu nhập khác nhau, cách sống khác nhau, hai cộng đồng vẫn song hành, vẫn giao nhau nhưng chẳng thấy nhau. Đạo diễn Avi Mograbi từng viết "họ đã thành công khi làm biến mất người Ả rập trên đất nước" vì ở đây "người ta có thể nghe tiếng Hébreu, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh ... và mọi thứ tiếng khác TRỪ tiếng Ả Rập.[...] Văn tự Ả rập biến mất trên các tên đường. Mọi bảng hiệu hoàn toàn được kẻ bằng chữ Hébreu và chữ Anh, kể cả tên họ trên các chuông cửa". 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phim tài liệu Mùa đông 1991

Phim tài liệu Mùa đông 1991 Bộ phim tài liệu "Mùa đông năm 1991" phân tích về sự tan rã của Liên Xô - sự kiện được coi là “thảm họ...

Popular Posts