Nhân đọc “Eden in the East”: Đặt lại vấn đề nguồn gốc
dân tộc và văn minh Việt Nam
.
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Hỏi một người Việt bình thường về nguồn gốc dân tộc Việt Nam,
câu trả lời mà người ta thường nghe là tổ tiên của chúng ta xuất phát từ Trung
Quốc. Ngay cả người có kiến thức rộng, có quan tâm đến dân tộc và văn hóa Việt
cũng có những ý kiến tương tự. Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa Sử cương; và
Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, cũng từng cho rằng người Việt có nguồn
gốc hoặc từ Trung Quốc [1] hay từ Tây Tạng [2] dù họ có chút dè dặt và thận trọng
trong phát biểu. Gần đây, một người làm chính trị nhưng có quan tâm đến văn hóa
Việt Nam, Nguyễn Gia Kiểng, trong Tổ quốc ăn năn, cũng cho rằng nước Văn Lang
xưa kia là do người Trung Quốc sáng lập [3] ra.
Có lẽ cái quan điểm dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc
đã ăn sâu vào tâm trí của chúng ta, nên văn minh Việt Nam cũng được
nghiễm nhiên suy luận là bắt nguồn từ văn minh Trung Quốc. Quan điểm
này phù hợp với sách vở của Trung Quốc. Chẳng hạn như trong Hậu Hán thư ,
các sử gia của Trung Quốc, với một giọng văn cực kỳ trịch thượng và kỳ thị chủng
tộc, viết rằng tổ tiên ta ngày xưa giống như loài “cầm thú”, xã hội thì chẳng
có tôn ti trật tự gì cả, phải đợi đến khi hai quan thái thú của họ là Tích
Quang và Khâm Diên dạy cho tổ tiên ta cách ăn mặc và cách trồng lúa. Sau đó các
nhà sử học này thản nhiên kết luận: “Miền Lĩnh Nam theo phong
hóa Trung Quốc là bắt đầu từ hai thái thú ấy” [4].
Điều thú vị [hay đáng trách] là nhận xét này đã được giới có
học của Việt Nam tiếp nhận và lấy làm một thứ kinh điển, một câu văn
giáo khoa, mà không có một chất vấn tính trung thực, hay thách thức tính khoa học
của nó [5]. Tính dễ dãi chấp nhận sử liệu ngoại bang của giới có học
ngừơi Việt đã vô tình gieo vào lòng nhiều người Việt một tâm lý tự ti, đánh giá
thấp nền văn hóa Việt Nam khi so sánh với các nền văn hóa khác, như của Trung
Hoa chẳng hạn. Đại diện cho sự đánh giá thấp này thì có nhiều, nhưng một câu
phát biểu trong Tổ quốc ăn năn của Nguyễn Gia Kiểng tưởng tóm lược khá đầy đủ:
"[…] chúng ta có lẽ là nền văn minh phù sa muộn nhất. […] dấu ấn của
nền văn minh phù sa: cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu
óc mạo hiểm. […]" [6] . Từ nhận định đó, tác giả của TQĂN cho rằng
tổ tiên của chúng ta qua nhiều ngàn năm, tuy sống bên cạnh biển, mà chỉ nhìn biển
với cặp mắt sợ hãi, không sáng chế ra ra kỹ thuật hàng hải nào cả.
Thực ra, chẳng riêng gì giới trí thức Việt Nam, ngay cả một
phần lớn trong giới sử học Tây phương cũng từng quan niệm, hay nói đúng hơn là
giả định, rằng các nền văn minh Đông Nam Á (kể cả của Việt Nam) chỉ là những
chi nhánh của hai nền văn hóa lớn hơn: Trung Hoa và Ấn Độ. Giả định này
đã được dùng như là một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy để dạy học cho học
sinh (trong đó có cả học sinh người Việt); và một cách vô tình, nó được
lưu truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác như là một sự thật ! Bởi vì qua nhiều
năm, chẳng ai chất vấn lý thuyết này, nên một cách nghiễm nhiên, nó được xem là
một “thuyết chính thống.”
Mãi đến thập niên 60s thuộc thế kỷ 20, một số nhà khảo cổ học
rất uy tín (phần lớn là Mỹ), dựa vào nhiều kết quả của một loạt nghiên cứu ở Việt
Nam và Thái Lan, đã bắt đầu chất vấn sự chính xác và tính logic của thuyết
chính thống trên đây [7]. Có thể nói họ là những “con cừu đen” trong giới tiền
sử học, vì đã can đảm thách thức một quan điểm mà đại đa số đồng nghiệp đều mặc
nhiên công nhận. Nhưng họ không phải là những người đơn độc. Gần đây, đã có một
số nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái Lan, và Nam Dương công bố nhiều dữ kiện khảo
cổ học cho thấy rằng thuyết văn hóa Đông Nam Á xuất phát từ văn hóa Trung Hoa
và Ấn Độ không còn đứng vững nữa.
Nhưng trong những nhà nghiên cứu chuyên môn này, chưa ai
trình bày dữ kiện một cách có hệ thống và nghiên cứu một cách sâu xa bằng một
nhà nghiên cứu “tài tử” là ông Stephen Oppenheimer trong cuốn sách "Eden
in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia" (tạm dịch
là "Thiên đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam Á) [8]. Trong
tác phẩm này, qua những dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều
ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer trực tiếp thách thức cái thuyết chính
thống, và làm thay đổi những quan niệm về thời tiền sử mà chúng ta từng hiểu và
từng được dạy. Đặc biệt, cuốn sách đặt trọng tâm vào việc thẩm định lại các
quan điểm về văn minh vào thời tiền sử ở Đông Nam Á, tác giả cho rằng:
a. Trận đại hồng thủy [9] tương tự như trong Kinh Thánh
là có thật và xảy ra vào cuối thời đại Băng hà (Ice Age).
b. Trận đại hồng thủy này xảy ra khoảng 8000 năm về trước
làm chìm đắm lục địa Đông Nam Á, và làm cho dân chúng phải di tản đi các vùng đất
khác để sống. Họ chính là những người gầy dựng nên nền văn hóa Tân Đồ Đá
(Neolithic cultures) của Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập và vùng
đông Địa Trung hải, và do đó, họ là những người cha đẻ và vun đắp các nền văn
minh vĩ đại ở phương Tây.
c. Những dân tộc thuộc quần đảo Polynesian không phải
xuất phát từ Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc từ Đông Nam Á.
d. Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kỹ
thuật trồng lúa. Khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân thuộc vùng
Đông Nam Á đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên của nhân loại (chứ
không chỉ sống bằng nghề săn bắn), họ đã phát triển kỹ thuật trồng khoai và qua
đó làm một cuộc cách mạng nông nghiệp.
Nói một cách khác cho rõ ràng hơn, qua công trình nghiên cứu
này, Oppenheimer đề xuất một thuyết cho rằng Đông Nam Á là cái nôi của văn minh
nhân loại ngày nay. Thuyết này thể hiện một thách thức rất lớn đến các tri thức
về thời tiền sử đã và đang được lưu truyền trong giới khoa bảng. Và do đó,
Oppenheimer đã, lần đầu tiên, đặt vùng Đông Nam Á vào vị trí xứng đáng của một
vùng đất thường bị lãng quên bên cạnh hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ.
Vùng đất giàu lịch sử nhưng bị lãng quên
Đông Nam Á là một trong những vùng đất với nhiều sắc dân và
nhiều nền văn minh phong phú nhất và cổ nhất của nhân loại. Về mặt địa lý, có
hai khu vực riêng biệt: một khu thuộc về đất liền và một khu thuộc về hải đảo.
Khu vực đất liền thực ra gồm hai bán đảo: khu rộng lớn bao gồm Miến Điện (ngày
nay gọi là Myanmar) thuộc hướng Đông Bắc, Thái Lan ở giữa, và Lào, Cam-bốt, và
Việt Nam thuộc hướng Đông và Đông Nam; và khu nhỏ hơn bao gồm bán đảo Mã Lai,
chạy dài từ Thái Lan xuống tận Miến Điện.
Miến Điện có nhiều chùa chiền được kiến trúc một cách phi
thường, nhiều lâu đài được chạm khắc rất tinh vi. Ở miền Bắc Thái Lan cũng còn
lưu lại nhiều công trình kiến trúc vĩ đại mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo. Vịnh
Hạ Long thuộc phía bắc Việt Nam trồi lên những tác phẩm thiên nhiên
như được chạm bằng đá vôi, mà có lẽ từng là một vùng lục địa khoảng mười ngàn
năm trước đây. Cổ Loa, một huyện nhỏ của Việt Nam ngày nay, có lẽ là một trung
tâm đô thị (hay một thành phố) đầu tiên của vùng Đông Nam Á, với niên biểu được
ước đoán vào khoảng niên kỷ thứ ba trước Dương lịch. Những công trình kiến trúc
ở Huế và Đà Nẵng cho thấy sự tương phản giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ.
Thành phố Huế, tuy lâu đời hơn, nhưng có nhiều công trình kiến trúc trẻ hơn,
thành phố Đà Nẵng, nơi mà nhiều tháp Chàm còn lưu lại như những dấn ấn của văn
minh Ấn Độ. Cam-bốt có đền Angkor Wat nối tiếng, và nhiều dấu vết của một nền
văn minh sáng chói trước đây. Ai là người đã xây dựng những công trình này?
Trong Thiên Đàng ở Phương Đông, Oppenheimer chứng minh rằng chính
những người dân địa phương đã xây dựng những công trình đồ sộ này. Ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ chỉ qua thương mại, chứ không phải qua xâm lăng.
Với một lịch sử lâu đời và nhiều nền văn minh phong phú như
thế, song Đông Nam Á lại không được các nhà sử học để ý đến như các vùng đất
khác. Đây là một ví dụ về thành kiến của giới sử học Tây phương. Khoảng 200 năm
trước đây, các nhà sử học khám phá rằng phần lớn hai họ ngôn ngữ Ấn và Âu
(Indian và European) thuộc vào một họ ngôn ngữ mà ngày nay chúng ta gọi là nhóm
Ấn-Âu (Indo-European language group). Khám phá này được đánh giá như là một
thành quả vĩ đại của tri thức vào thời gian đó. Nhưng mỉa mai thay, trước đó
vài năm, người ta đã phát hiện ra một nhóm ngôn ngữ khác, có tên là
Austronesian, nhưng không đem lại một sự chú ý nào đáng kể trong giới khoa bảng
Tây phương cả. Nhóm ngôn ngữ này hiện diện rất rộng, từ các vùng như
Madagascar, Đài Loan ngày nay, Hawaii, và Tân Tây Lan, vượt Thái Bình Dương, đến
tận Ấn Độ dương khá lâu, có thể trước khi Phật Thích Ca ra đời.
Sách viết về nguồn gốc văn minh thế giới hoàn toàn không đề
cập đến Đông Nam Á. Ngay cả khi đề cập đến khu vực này trong vài năm gần đây,
các sách cũng chỉ viết một cách sơ sài vài hàng, với giọng văn thiếu nghiêm
túc, nhưng lại tập trung vào hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, nhất là vào
thời 2000 năm trước đây. Mãi đến thời gian gần đây, văn minh của Thời đại Đồng
thiết Đông Sơn (Bronze Age), và các nền văn hóa trước đó (vào niên kỷ thứ nhất
trước Dương lịch) của Việt Nam mới được công nhận như là văn minh nguyên thủy
trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, số lượng nhà khảo cổ học trực tiếp gắn bó
và chuyên môn nghiên cứu về các nền văn minh này vẫn còn rất ít, nếu không muốn
nói là chỉ “đếm đầu ngón tay”. Trong khi đó, các trung tâm nghiên cứu thuộc các
nước trong vùng như Việt Nam, Thái Lan, Nam Dương, v.v. thì lại bị hạn chế về
chuyên môn, lẫn thiết bị và tài chính để làm có thể tiến hành những nghiên cứu
loại tiền phong.
Khoảng trống lịch sử
Có lẽ vì những lí do kể trên, ngành khảo cổ học, tuy với một
bề ngoài mang vẻ chính xác cao, nhưng thực tế thì có khá nhiều khoảng trống.
Khoảng trống lịch sử đáng chú ý nhất là quá trình tiến hóa sau thời kỳ nước biển
bị dâng cao, và đặc biệt là vào thời kỳ Đồ Đá Mới, khoảng 8000 năm trước đây,
nhất là sự lãng quên cho nền văn minh Đông Nam Á, vì thiếu dữ kiện. Thực vậy,
ngoài Việt Nam và Thái Lan là hai nước có nghiên cứu khảo cổ tương đối trưởng
thành và có khá nhiều dữ liệu gần đây, ở các nơi khác trong vùng, giới khảo cổ
học chỉ mới bới đào phần trên mặt của thời đại Đá mới và Đồng thiết (Neolithic
và Bronze Age). Cộng thêm vào đó là sự thiếu thốn các văn bản trong thời tiền sử
thuộc vùng đất này cũng làm cho việc nghiên cứu thêm nhiều khó khăn. Nhưng dù
sao đi nữa, so với các vùng khác trên thế giới, Đông Nam Á vẫn là một địa
phương có nhiều thiếu sót về dữ kiện trong thời tiền sử.
Trong "Thiên đàng ở phương Đông," Stephen
Oppenheimer đặt một câu hỏi mà ai cũng phải suy nghĩ: người dân vùng duyên hải
Đông Nam Á làm gì khi mực nước biển [10] dâng cao làm ngập xứ sở họ vào thời gần
Thuộc kỷ pleitoxen? Câu trả lời của Oppenheimer dựa vào ba lý lẽ quan trọng:
i. Thứ nhất, vào thời cao điểm của Thời đại Băng
hà (khoảng 20.000 đến 18.000 năm trước đây), Đông Nam Á là một lục địa rộng gấp
hai lần Ấn Độ ngày nay, và bao gồm cả phần đất mà người Tây phương thường gọi
là bán đảo Đông Dương, Mã Lai Á và Nam Dương. Vào thời đó, Biển Nam (South
China sea), Vịnh Thái Lan và Biển Java là một vùng đất khô nối liền các khu vực
của lục địa. Theo địa chất học, bán phần của vùng đất bị ngập chìm này được gọi
là Thềm lục địa Sunda (tiếng Anh là Sundaland). Vùng đồng bằng của thềm lục địa
này bị chìm đắm rộng lớn bằng Ấn Độ ngày nay. Sau Thời đại Băng hà, cuối cùng
chỉ còn một số núi rải rác chung quanh quần đảo Mã Lai. Vùng biển nối giữa Hàn
Quốc, Nhật Bản, và Đài Loan mà ngày nay ta gọi là Biển Đông (East China sea) từng
là vùng đất liền. Một bằng chứng rất thuyết phục mới nhất (ba năm trước đây) là
những công trình xây cất, tòa nhà được kiến trúc rất độc đáo vừa được khám phá
dưới lòng biển thuộc Đài Loan.
ii. Thứ hai, Oppenheimer chứng minh rằng
khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân vùng Đông Nam Á đã là trở
thành những nhà canh nông chuyên nghiệp, không chỉ là những người sống bằng nghề
săn bắn ban sơ như giới khảo cổ học Tây phương mô tả. Ông trình bày dữ kiện
liên quan đến trồng trọt khoai lang (khoai mỡ, yam) và khoai nước (taro) được
tìm thấy ở Nam Dương, mà tuổi cỡ 15,000 đến 10,000 trước Dương lịch; kỹ thuật
trồng lúa có sắp sỉ tuổi cũng được tìm thấy ở Mã Lai Á.
iii. Thứ ba, dựa vào dữ kiện và các yếu tố
địa chất học, Oppenheimer cho rằng vào khoảng 8000 năm trước đây, mực nước biển
tăng một cách đột ngột và gây ra một trận đại hồng thủy, và trận lụt vĩ đại này
đã làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế giới này phải di tản đi các vùng đất
khác để mưu sinh. Tuyến đường di cư là theo hướng nam về Úc Đại Lợi, hướng đông
đến Thái Bình Dương, và hướng tây đến ấn Độ Dương, và hướng bắc vào vùng đất liền
Á châu.
Trong quá trình di cư đến các vùng đất mới, họ đem theo ngôn
ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, yêu thuật, và đẳng
cấp xã hội đến vùng đất mới. Thực vậy, ngày nay, dấu vết của cuộc di dân trên vẫn
còn ghi đậm trong các quần đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia; dân chúng những
nơi này nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Austronesian có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Có
lẽ người ta không ngạc nhiên khi thấy trong các dân tộc vùng Đông Nam Á, Trung
Đông, Úc châu, và Mỹ châu đều có những câu truyện thần thoại về trận lụt
vĩ đại này, và các câu truyện này có độ tương tự rất cao. Điều này chứng
tỏ rằng các sắc dân này xuất phát từ một nền văn hóa nguyên thủy. Theo
Oppenheimer, những người tỵ nạn này là những hạt giống cho những nền văn minh lớn
khác mà sau này được phát triển ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập, và Địa trung
hải.
Ngoài phần nghiên cứu về thần thoại và truyền thuyết,
Oppenheimer còn dùng một nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất và mang tính khoa học
và chính xác hơn là di truyền học. Các dữ kiện di truyền học chứng minh rằng
các sắc dân trong quần đảo như Tân Guinea, Polynesia, Melanesia, v.v. có cấu
trúc di truyền tố giống với các sắc dân thuộc vùng Đông Nam Á ngày nay. Gần
đây, còn có một số nghiên cứu di truyền học cho thấy người Hán có nguồn gốc từ
Đông Nam Á và có thể cả Bắc Á.
Ông Oppenheimer viết, "Lý thuyết mà tôi trình bày
trong cuốn sách này. lần đầu tiên, đặt Đông Nam Á vào trung tâm của
các nguồn gốc văn hóa và văn minh. Tôi cho rằng nhiều người phải di tản khỏi
vùng duyên hải của họ ở phương Đông vì lụt lội. Những người tỵ nạn này từ đó
vung đấp những nền văn minh vĩ đại ở phương Tây."
Một vùng đất văn minh tiến bộ
Theo Oppenheimer, Atlantis của Đông Nam Á, tạm gọi là
"Sundaland", bởi vì vùng này là một thềm lục địa Sunda, nơi từng là
trung tâm hàng đầu về cuộc cách mạng thời đại đồ đá mới (Neolithic Revolution),
bắt đầu phát triển kỹ thuật trồng trọt, dùng đá để nghiền hạt lúa, vào khoảng
24,000 ngàn năm trước đây, tức là trước cả Ai Cập và Palestine khoảng 10,000
năm.
Một loạt khám phá khảo cổ gần đây đã đủ để xét lại thuyết
cho rằng Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đã khai hóa hay truyền bá văn minh cho
các nước thuộc vùng Đông Nam Á. Thực vậy, khám phá về hạt lúa ở hang Sakai (miền
Bắc Thái Lan) gần đây cho thấy cư dân ở đây đã biết trồng lúa rất xưa, có thể
trước cả thời kỳ nước biển dâng cao vào khoảng 8000 năm về trước, ít nhất là từ
thiên niên kỷ thứ 6 hay thứ 7 trước Dương lịch. Hệ thống nông nghiệp được tìm
thấy ở Nam Dương có niên biểu lâu đời hơn cả thời đại mà những thành tựu được
xem là "cách mạng" về trồng lúa ở Trung Quốc. Thực vậy, ở Nam Dương,
kỹ thuật về trồng khoai lang và khoai nước được ước đoán có tuổi từ 15000 đến
10000 năm trước Dương lịch. Ở Việt Nam, khám phá ở Phùng Nguyên và bằng
kỹ thuật định tuổi dùng Carbon-14 cho thấy tổ tiên ta từng trồng trọt ngũ cốc
khoảng 5000 đến 6000 năm trước đây, tức là còn sớm hơn nhiều niên biểu của những
thành tựu của người Trung Quốc. Ngoài ra, Nhà khảo cổ học rất uy tín gốc
Mỹ, Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, trong một loạt nghiên cứu từ 1965 đến 1968,
cho thế giới thấy nền văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên
trên thế giới, khoảng 15,000 năm trước dương lịch. Một Nhà khảo cổ học danh tiếng
khác người Úc, Giáo sư Peter Bellwood, đã từng viết rằng quê hương nguyên thủy
của cây lúa rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Dương - Mã Lai - Miến Điện,
vì ở đây khí hậu nhiệt đới là môi trường thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp.
Trong Eden in the East, Oppenheimer cũng có kết luận tương tự: thay
vào một mô hình cho rằng Trung Quốc là xứ sở nguyên thủy của kỹ thuật trồng
lúa, chúng ta lại có một mô hình khác mà trong đó các dân tộc "man
di" nói tiếng Nam Á ở Đông Dương dạy người Trung Quốc các kỹ thuật trồng
lúa.
Không những trong lĩnh vực nông nghiệp, mà ngay cả trong
lĩnh vực kỹ nghệ chế biến, sản xuất, người Đông Nam Á, mà đặc biệt là người Việt
Nam, đã phát triển kỹ thuật làm đồ đồng, đồ thiết và đồ gốm khá cao. Về các sản
phẩm đồ đồng và thiết, người dân ở vào thời Phùng Nguyên đã từng sản xuất vũ
khí, và mức độ sản xuất đã tăng vọt trong thời đại Đông Sơn. Thực vậy, vào thời
Phùng Nguyên (tức là lúc thời kỳ khởi đầu của vù Hùng) tỷ lệ vũ khí tìm thấy
trong các di vật dưới 1%; nhưng đến thời cuối vua Hùng, tỷ lệ này tăng lên khoảng
50 đến 63%. Nhiều khí giới khai quật gần đây ở Đông Sơn cho thấy cư dân ở đây
là từng sản xuất nhiều vũ khí phức tạp (có chạm trổ tinh vi), có thể đánh xa và
gây tổn thương hàng loạt cho đối phương. Người Trung Quốc vẫn cho rằng họ là
người phát minh ra vũ khí dùng trong chiến trường. Đối chiếu với những khám phá
ở Đông Sơn và Phùng Nguyên, xem ra thuyết người Trung Quốc khám phá ra vũ khí đầu
tiên không còn vững nữa!
Về đồ gốm, người Việt Nam đã sản xuất nhiều sản phẩm nghệ
thuật công phu và thanh tú, và những sản phẩm này không những được bán trong khắp
vùng Đông Nam Á, mà còn xuất khẩu qua tận xứ Melanesia. Thị trường xuất khẩu
này đã hình thành trước sự ảnh hưởng của Ấn Độ. Các dụng cụ bằng đá tìm được ở
Úc châu cũng từ Hòa Bình mà ra: tuổi của các đồ đá này được định là 14000 đến
20000 năm trước Dương lịch. Đồ gốm ở Nhật với tuổi khoảng 10000 năm trước dương
lịch cũng xuất phát từ Hòa Bình. Giáo sư Solheim II nhấn mạnh rằng cả
hai nền văn minh nổi tiếng của Trung Hoa là Lung Shan và Yang Sao đều xuất phát
từ Hòa Bình. Như vậy, từ đồ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng Đông sơn,
tất cả đều chứng minh nền văn minh Việt Nam thời tiền sử đã đạt tới một trình độ
cao trên thế giới. Quan trọng hơn là những phát triển này xảy ra trước thời văn
minh Lung Shan và Yang Sao ở Trung Quốc.
Trước, và đặc biệt là trong, thời kỳ nước biển dần dần dâng
cao, người Sundaland di dân đến những vùng đất láng giềng: Trung Quốc, Ấn Độ,
Mesopotamia, và vài hòn đảo từ Madagascar đến Phi Luật Tân, Tân Guinea, và sau
này họ chiếm luôn vùng Polynesia cho đến Hawaii và Tân Tây Lan. Họ là những người
thầy ở các vùng đất mới, dạy người địa phương những kỹ thuật trồng trọt và xây
dựng. Người Hòa Bình còn truyền bá văn minh nông nghiệp đến nhiều nơi trên thế
giới: Nhật, Đài Loan khoảng 4000 năm trước Dương lịch; Phi Luật Tân, Indonesia
khoảng 3000 năm trước Dương lịch; Madagasca và Đông Phi châu khoảng 2000 năm
trước Dương lịch.
Bắc xuống Nam, hay Nam lên Bắc?
Theo thuyết của Oppenheimer thì người Trung Quốc và Ấn Độ
ngày nay có gốc gác từ Đông Nam Á, chứ không phải nguồn gốc của người Đông Nam
Á là ở Trung Quốc hay Ấn Độ. Đây cũng là một đảo vòng xoay 180 độ về nguồn gốc
dân tộc Việt Nam. Mà, xem ra thuyết của Oppenheimer có nhiều "đồng
minh." Một số học giả khác (như Madelaine Colani, J Hornell, P. V. van
Stein, Heine Geldern, Bernard Karlgren, N J Krom) cũng cho rằng làn sóng người
từ Bắc Việt tràn xuống phía Nam và vào Ấn Độ trước khi vùng này bị giống dân Aryan
xâm chiếm. Giáo sư Solheim II căn cứ trên những dữ kiện khảo cổ thì thấy
rằng giống người Hoà Bình tràn lan xuống phía nam, lên hướng bắc, và sang hướng
tây. Tại mỗi nơi, người Hòa Bình phối hợp với dân địa phương để tạo
thành các chủng tộc mới của mỗi vùng.
Mới đây thuyết Bắc-tiến còn có căn cứ khoa học vững vàng (dù
lúc viết sách, ông Oppenheimer không biết đến), đó là: trong một bài báo khoa học
quan trọng được công bố trên Tạp chí của Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Mỹ (một
tạp chí khoa học rất uy tín trên thế giới) , một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại
học Texas (Mỹ) và Viện Nghiên cứu Di truyền học Trung Quốc cho thấy nguồn gốc của
người Trung Hoa (và cả người Đông Á) rất có thể là do người từ Đông Nam Á di
dân lên [11], chứ không phải ở Bắc di dân xuống Nam! Như vậy, cho rằng
dân tộc Việt là xuất phát phát từ người Trung Quốc có thể là một ngộ nhận.
Phải hiểu ngược lại thì mới đúng !
Một vài nhận xét
Eden in the East là một tác phẩm độc đáo, được
soạn thảo rất công phu và khoa học. Điều đáng chú ý là tác giả là một bác sĩ
chuyên khoa về nhi đồng, không phải là một nhà khảo cổ học. Tuy nhiên, với khả
năng và kiến thức khoa học của tác giả, ông đã tiếp nhận tri thức và xử lý
thông tin từ nhiều nguồn như di truyền học, nhân chủng học, thần thoại, văn học
dân gian, ngôn ngữ học, hải dương học, và khảo cổ học để cho ra đời một cuốn
sách làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và khảo cổ học phải bất ngờ.
Thực vậy, Oppenheimer đã, không những trực tiếp chất vấn, mà còn thách đố, những
thuyết mà giới chuyên môn, kể cả các học giả Việt Nam đề ra và chấp nhận như những
"chân lý" thời tiền sử. Kể từ ngày xuất bản cuốn sách cho đến nay
(khoảng 3 năm), theo tôi biết, chưa một ai trong giới chuyên môn về Đông Nam Á
học chất vấn tính khoa học của thuyết mà Oppenheimer đề xuất. Thực ra, tất cả
những bài điểm sách (khoảng 20 bài) mà tôi đọc qua không có một bài nào chất vấn
cách làm việc hay khoa học tính của tác giả; tất cả đều ngợi khen một cách nồng
nhiệt. Có người còn cho rằng đây là một quyển sách quan trọng vào bậc nhất
trong ngành Đông Nam Á học!
Đối với người viết bài này, một điểm yếu của quyển sách là
những dữ kiện hay bằng chứng liên quan đến các câu chuyện thần thoại. Tác giả cố
thuyết phục độc giả bằng cách trình bày mối tương quan giữa các nền văn hóa bằng
những câu chuyện thần thoại có motif giống nhau, để từ đó chứng minh cho thuyết
của ông (tức là văn minh nhân loại xuất phát từ Đông Nam Á). Tác giả thậm chí
còn dùng thống kê học để thẩm định mối tương quan này! Tuy nhiên, tôi vẫn cảm
thấy những dữ kiện như thế có vẻ hời hợt, và thiếu tính thuyết phục cao. Đành rằng,
nhiều nền văn hóa, và đặc biệt là những văn hóa thuộc vùng Á châu - Thái bình
dương, có nhiều truyện thần thoại giống nhau, hay ít ra là song song nhau về lụt
lội. Đây không phải là những sự ám chỉ tối tăm đến những sự kiện mang tính
Freud trong tiềm thức nhưng là những sử kiện rõ rệt liên đới đến những thảm họa
khi mực nước biển dâng cao sau thời đại Băng hà. Nhưng phương pháp xác định nguồn
gốc của những câu chuyện thần thoại này là một vấn đề.
Tuy nhiên, giữ cái điểm yếu đó trong khi đọc sách, tôi vẫn
phải công nhận tác giả đã khảo cứu rất cẩn thận, tiếp thu và xử lý tài liệu rất
chuyên môn. Thêm vào đó là lối hành văn trong sáng, và lý luận vững vàng, tác
giả đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ lại về nguồn gốc tổ tiên và văn minh của
nhân loại ngày nay. Chúng ta cần nhiều tác phẩm loại này hơn nữa trong lĩnh vực
khảo cổ học để cho thấy rằng tổ tiên chúng ta không chỉ sáng tạo ra địa cảnh
(hay hải cảnh) mà chúng ta đang sống, nhưng địa cảnh và hải cảnh cũng tạo ra
chúng ta.
Tóm lại, nhiều khám phá khảo cổ học mới đây, và nhất là cuốn
sách Eden in the East, đã nhanh chóng đưa vùng đất bị lãng quên của
Đông Nam Á vào một nơi trang trọng của bản đồ thế giới, và là cái nôi của văn
minh nhân loại ngày nay. Và qua những khám phá này, chúng ta đã có dữ kiện để đặt
lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam, chất vấn những thuyết
mà ta từng được dạy và từng tin như là những chân lý. Chúng ta có bằng
chứng để phát biểu rằng trước khi tiếp xúc với người Hán từ phương bắc (Trung
Quốc) đến, tổ tiên chúng ta đã tạo dựng nên một nền văn minh khá cao, nếu
không muốn nói là cao nhất trong vùng Đông Nam Á. Đô thị cổ xưa nhất trong vùng
là do tiền nhân của chúng ta xây dựng. Tổ tiên chúng ta là những nhà kỹ thuật
giỏi, đã biết sản xuất vũ khí để đánh giặc, đã đúc được những trống đồng tinh xảo
để truyền lại những ý tưởng và triết lý cho hậu duệ, và cũng có thể nói họ cũng
là những nghệ sĩ tài ba, ham thích múa hát và thổi kèn. Tổ tiên chúng ta đã
phát triển và ứng dụng kỹ thuật trồng lúa trước người Hán, hay là những người
thầy dạy cho người Hán trồng lúa (chứ không phải ngược lại.) Và có thể tổ tiên
chúng ta cũng chính là tổ tiên của người Trung Quốc ngày nay. Đã đến
lúc phải trả lại sự thực và danh dự cho tổ tiên chúng ta.
Nguyễn Văn Tuấn
------------------------------
Chú thích:
1. Trong Việt Nam Văn hóa Sử cương (Nhà
xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992), ở trang 24-25, Đào Duy Anh viết:
"Nay ta hãy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử học, nhất là các vị
giáo sư ở trường Viễn Đông bác cổ, mà xem gốc tích của dân tộc ta như thế nào.
Có người cho rằng tổ tiên ta phát xuất từ Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị
mà di cư xuống miền trung châu Bắc Việt. Nhưng theo ông Aurousseau dẫn chứng có
điều rất kỹ càng thì tổ tiên ta lại là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương
Tử, sau bị nước Sở (đời Xuân thu) đánh đuổi phải chạy xuống miền nam ở miền Quảng
Đông, Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc Việt và phía Bắc Trung Việt. Theo nhiều
nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời thượng cổ, giống người Indonesian bị giống
Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang bán đảo Ấn Độ Chi-na, làm tiêu diệt giống người
thổ trước đầu tiên ở đây là giống Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy
đi thẳng mãi sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía
nam thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở phía
bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt
Nam."
2. Trong Việt Nam Sử Lược (Trung
tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sàigòn, 1971), ở trang 5, Trần Trọng Kim viết:
"Theo ý kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người
Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà
lần xuống phía Đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; còn người
Thái thì họ theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm la (tức là Thái Lan) và
các nước Lào.
3. Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng
nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán tộc (tức người
Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng
sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải
lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.
4. Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ
cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam ta
trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ;
mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng,
chứ không phải là loài Tam Miêu."
5. Trong Tổ quốc ăn năn (Paris,
2001), ở trang 122, Nguyễn Gia Kiểng viết: " … cuộc Nam tiến của
người Trung Hoa đến Quảng Đông, Quảng Tây thì khựng lại vì gặp bức tường núi gần
100 cây số. Chỉ có một số ít người vượt được núi, hợp với thổ dân mà tạo ra nước
Văn Lang."
6. Sách Hậu Hán thư (tức sử của
Trung Quốc) chép: "Phàm đất thuộc bộ Giao Chỉ, tuy đã đặt quận, huyện, nhập
vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng ngôn ngữ vẫn khác nhau, phải có thông ngôn mới
hiểu. Người như cầm thú, không phân biệt trưởng ấu (tức không có tôn ti trật tự),
búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải quấn qua đầu làm áo. Sau đó những người tội
phạm Trung Quốc đến ở lẫn với họ, mới biết ngôn ngữ dần dần thấy hóa theo lễ. Đến
thời Quang Vũ Trung Hung, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái
thú Cử Chân, bấy giờ mới dạy cho dân biết cày cấy, biết đội mũ đi giày, đặt mối
lái, dân mới biết hôn nhân, dựng học hiệu dạy lễ nghĩa …"
7. Trong một cuốn băng video ca nhạc mang
tựa đề "Cây đa, bến cũ" do Trung tâm Thúy Nga thực hiện và
phát hành, người diễn đọc (Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn) lập lại câu văn của Hậu
hán thư và phát biểu rằng Quan thái thú Nhâm Diên là người đã dạy cho dân Việt
Nam cách trồng lúa.
8. Trích Tổ quốc ăn năn (Paris, 2001) của
Nguyễn Gia Kiểng, trang 306.
9. Về các bài báo khoa học mang tính tiền
phong trong ngành khảo cổ học ở Đông Nam Á, xin xem những bài sau đây:
(i) "On the improbability of Austronesian origins in South China," của
Giáo sư William Meacham, đăng trong Tạp san Asian Perspectives, quyển 25, năm
1984-5; (ii) "The nusantao and North-South dispersals," của
Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, in trong "Indo-Pacific Prehistory
Association Bulletin," quyển 2, năm 1996; (iii) "Southeast
Asia and Korea: from the beginings of food production to the first
states," cũng của Giáo sư Solheim II, in trong "The History
of Humanity: scientific and cultural development," quyển I: "Prehistory
and the Beginning of Civilization," do UNESCO/Routledge (London) xuất
bản năm 1994. Ngoài ra, độc giả có thể tham khảo thêm các bài báo tiếng Việt
liên quan đến đề tài này của Tác giả Cung Đình Thanh trên Tạp san Tư Tưởng số
3, 4, và 7.
10. Sách "Eden in the
East: the Drowned Continent of Southeast Asia," của Stephen
Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998. Sách khổ 13 x 20
cm, dày 560 trang, kể cả 47 trang tài liệu tham khảo và 28 trang bảng danh mục,
chữ loại nhỏ (Times cỡ 8). Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9 sterling Anh.
11. Theo sách Genesis, và theo truyền
thuyết của nhiều nền văn minh cổ, ngày xưa có xảy ra một số trận lụt vĩ đại
(hay đại hồng thủy) phủ ngập cả trái đất. Huyền thoại về lụt nổi tiếng nhất là
câu chuyện về Noah, một giáo trưởng, được của Thượng đế, xây dựng một chiếc
thuyền lớn tên là Ark để gia đình ông ta và mọi sinh vật có thể sống sót qua
cơn lụt.
Về các phân tích di truyền học, có thể tham khảo các bài
báo khoa học sau đây:
(i) "Genetic relationship of populations in
China", của Bài báo của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp thuộc Trường Đại
học Texas, đăng trên Tập san Proceedings of the National Academy of Science
(USA) 1998; số 95, trang 11763-11768
(ii) "Khám phá mới di truyền học về nguồn gốc con
người ở Đông Nam Á," của Nguyễn Đức Hiệp, đăng trên Tạp san Tư
Tưởng, số 7, năm 2000, trang 9-13
(iii) “Y-chromosome evidence for a northward migration of
modern humans into Eastern Asia during the last Ice age” của B. Su và đồng nghiệp,
đăng trên Tạp san American Journal of Human Genetics, năm 1999, số 65, trang
1718-1724.
_______________
Nguồn: Blog doremon360
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét